24.02.2016

Ba mùa thu - Tuệ Quang Tôn-thất Tuệ

Ba mùa thu
 Tuệ Quang Tôn-thất Tuệ

Từ cuối thập niên 40 tôi rời nơi cư trú ở vùng bất an , về thành phố Huế  ăn nhờ ở đậu, sống bằng việc dạy kèm .

Năm 1952 tôi đỗ Tú Tài phần thứ nhất tại Huế  . Năm đó một số trường trung học mới được thiết lập tại nhiều thành phố  . Nghe tin trường Trung Học Võ Tánh được mở  ở Nhatrang , tôi muốn xin tới đó dạy học , để dành lợi tức , vài năm sau đi học trở lại . Khổ thay , lúc ấy tôi chưa tròn mười tám tuổi , mẹ tôi lại không đành lòng thấy con bị gián đoạn việc học. Bởi vậy, tôi không thực hiện được dự tính này .


Năm 1955 , đang học tại Saigon , gặp lúc quân chính phủ đụng độ với lực lượng Bình Xuyên , tôi bị mất trọn áo quần , sách vở . Vô kế khả thi , tôi về Huế xin dạy học . Không đến  được Võ Tánh khi trường này mới mở, nhưng hình như tôi có tiền duyên với loại trường tân lập , nên lần này được bổ nhiệm làm “ giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp khế ước” tại trường Trung Học Thành Nội mở ở Quốc Tử Giám trong kinh thành Huế . Về sau trường đổi tên là Trung Học Hàm Nghi ( danh xưng này do tôi đề nghị trong phiên họp giáo sư chọn đặt tên chính thức cho trường, theo chỉ thị của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, vào năm 1956). 

Thu hân hoan  

Thực hiện đúng  ý định của mình , năm 1958 tôi nghỉ dạy ,trở lại theo học ngành Sư Phạm và Văn Khoa . Sau khi tốt nghiệp tôi được bổ nhiệm về chính nơi mình đã chọn lựa ngày trước là trường Trung Học Võ Tánh ở Nhatrang , phụ trách môn Sử Địa .

Đến Nhatrang vào một sáng mùa Thu 1961 bằng đường xe lửa , lòng tôi rộn rã niềm vui với thiên chức “Nghề Thầy”. Tại đây , vị hiệu trưởng vừa là thầy cũ dạy tôi môn toán ở trường Khải Định, vừa là thượng cấp cũ khi tôi dạy học ở trường Hàm Nghi . Đó là giáo sư Lê Nguyên Diệm . Là thầy rồi là cấp điều khiển , cụ Diệm hiểu rõ cá nhân tôi . Từng được thụ giáo rồi được cộng sự với cụ suốt mấy năm ở Huế , tôi cũng hiểu rõ về Cụ . Chuỗi ngày dạy học của tôi ở miền đất duyên hải này trôi qua êm đềm , bình thản , phẳng lặng . Bởi yêu mến trường Võ Tánh, quyến luyến thành phố Nha Trang, tôi từ chối các chức vụ điều khiển giáo dục mấy lần được bổ nhiệm  ở vài địa phương khác . Thích cuộc sống bình thản , tôi không gia nhập một đảng phái chính trị nào.

Trường Võ Tánh nói riêng , thành phố Nhatrang nói chung đã để lại trong tôi nhiều dấu ấn đẹp , nhiều kỷ niệm trân quí : thân ái với học sinh , giao hảo cùng phụ huynh , hòa đồng với đồng nghiệp . Ngoài thời gian phục vụ ở nhiệm sở Võ Tánh , tôi được nhiều tư thục ưu ái kêu gọi hợp tác , mỗi trường một số giờ hàng tuần : Hưng Đạo , Văn Học , Hàn Thuyên , Văn Hóa Quân Đội … Qua mỗi niên khóa , tôi hân hoan  trang trải tâm tình cùng các thế hệ đàn em về niềm  tự hào của  lịch sử tổ quốc , về gương sáng của các đấng tiền nhân , về những cuộc chiến đấu cam go hào hùng để bảo tồn nền tự chủ của đất nước ;  chia sẻ cùng giới trẻ những buồn vui qua quá trình dựng nước , giữ nước  chống xâm lược từ các phương Bắc , phương Tây . Với tôi , lịch sử phải được sử dụng làm sống lại quá khứ một cách trung thực , khẳng định niềm tự hào dân tộc , đề cao tình yêu quê hương , tình yêu Tổ Quốc . Lịch sử không thể bị bóp méo nhằm mục đích tuyên truyền phục vụ một phe phái chính trị nào. 

Thu đau xót

Chọn Nhatrang làm nơi định cư  sống trọn cuộc đời, tôi dự tính sẽ xin nghỉ hưu trước hạn tuổi 55 để đọc sách , nghiên cứu, học hỏi thêm thật thấu đáo rồi viết lách .

Cuộc sống đang bình thản trôi xuôi như một dòng suối mát , đột nhiên phũ phàng va chạm một trở lực khó thể vượt qua .

Còn gì xót xa hơn khi lịch sử không được trình bày thực hiện theo đúng sứ mạng của nó. Quá khứ chiến đấu kiêu hùng bằng xương máu của tiền nhân chống kẻ thù xâm lược truyền kiếp, đã vì một lý do chính trị , chẳng những không được đề cao mà còn bị che giấu , đến nỗi có tình trạng người dạy sử không biết tướng Trần Bình Trọng là ai . Câu “ta thà làm quỷ nước Nam , không thèm làm vương đất Bắc” đã một thời bị không ít kẻ tưởng lầm là luận điệu tuyên truyền chia rẽ Bắc Nam từ một thế lực thù địch!!!

Còn gì chua chát hơn khi hào quang chói lọi từ các vĩ nhân xưa như Ngô Quyền , Lý Thường Kiệt , Trần Quốc Tuấn … bỗng dưng bị lu mờ che khuất đằng sau những ngôi sao huyền thoại thời thượng như súng trường bắn hạ được máy bay rải thảm ,  thân người đủ sức thay giá súng hay lấp lỗ châu mai …

Không thích nghi được với “quan niệm lạ” về sử học , mùa thu 1977  tôi ngậm ngùi rời bỏ căn nhà độc nhất đầy ắp kỷ niệm do chính mình tạo lập trên khu đất tạm chiếm  , xót xa chia tay thành phố biển thùy dương cát trắng hiền hòa .

Trường Võ Tánh từ ngày thành lập tới nay được tròn một vòng hoa giáp 60 năm , nhưng thực sự chỉ hưởng được 23 tuổi thọ (1952-1975) và cá nhân tôi chỉ được sống với trường vỏn vẹn 15 niên khóa  (1961-1975)

Hân hoan đến Nhatrang bằng đường sắt vào một sáng thu thơ mộng rồi ngậm ngùi rời Nhatrang bằng đường thủy vào một đêm thu se lạnh hạ huyền.  

Thu ngậm ngùi

Cả gia đình tôi do định mệnh an bài , cùng đi  du học tập thể ngoài ý muốn tận một quốc gia miền Bắc Mỹ châu .

Hơn ba thập niên qua , tôi cật lực vật lộn với cuộc đời . Từ một nhà giáo gần hai mươi năm trong nghề, tôi quay trở lại đời sống một sinh viên mà các giáo sư giảng dạy có đôi người ngang tuổi em , tuổi cháu .

Từ một ngươì dạy sử  tôi trở thành chuyên viên kỹ thuật kiểm phẩm ngành chế tạo máy bay rồi máy giấy . Sống nhờ vả xứ Gia Nã Đại nhưng lại đi làm thuê cho công ty người Phần Lan . Định mệnh thật trớ trêu kỳ lạ !!!

Thành phố Montréal của “Canada đất lạnh tình nồng” đã cưu mang gia đình tôi trong hơn ba thập niên qua . Tôi sống nơi đây lâu hơn bất cứ nơi nào trên quê hương mẹ . Mỗi độ thu về , nhìn rừng lá đổi màu , ngắm di điểu từng đàn bay về phương nam trốn lạnh , tôi  nghẹn ngào thấy tóc mình pha thêm sắc trắng , để đêm đêm ngậm ngùi “cử đầu vọng minh nguyệt, đê đầu tư cố hương” .

Ba mùa thu đặc biệt đi qua đời tôi : thu 1961 hân hoan , thu 1977 đau xót và thu 2011 ngậm ngùi .

Chiều thu nay , một mình trên ghế đá công viên, ngắm lá phong úa vàng tơi tả rụng , tôi mường tượng thấy lại những cánh lá  bàng xào xạc rơi trên đường làng quạnh quẽ ở quê nhà. Tôi ngẩn ngơ mơ ước một mùa thu thứ tư sẽ đến theo chu kỳ vần xoay của lịch sử trong tiến trình tạo vật biến thiên để có một ngày đẹp trời  được trở lại nơi xưa . Ngày ấy tôi về , không phải để thỏa mãn ham muốn những lạc thú riêng tư , cũng  không phải để phô trương với bạn bè giúm kiến thức thô thiển học hỏi ở xứ người hay khoe khoang với xóm giềng chút tiện nghi vật chất lượm nhặt từ đất khách , mà là để trả về cho Việt Nam , cho Nhatrang , cho đất nước  … một hình hài , một tâm hồn từ bao lâu nay đã và đang miệt mài  đi kiếm tìm cái mục tiêu thiêng liêng cao quí nhất trong đời , mục tiêu đó chính là “tình người, tình quê hương , tình dân tộc ” .

                                                          Montréal, Thu 2011
                                                      Tuệ Quang Tôn-thất Tuệ