24.09.2015

Biển Đông - Hoàng Long Hải

Biển Đông

Hoàng Long Hải

Thuận vợ thuận chồng,
tát biển Đông cũng cạn

Biển Đông tên gọi

Khi còn nhỏ, chưa biết đọc sách, tôi biết ở phía đông nước ta có biển, tên gọi là Biển Đông. Đầu tiên là do những kỷ niệm thời thơ ấu. Sau “tháng tám nám trái bưởi” là mùa mưa gió, lụt lội, mùa “mưa phùn gió bấc”, nhiều đêm biển động nghe rõ lắm, mặc dầu thành phố Quảng Trị, “miền thơ  ấu” – như người ta thường gọi - , xa biển khoảng bảy, tám cây số. Vào những đêm biển động ầm ì như thế, cha tôi (gọi bằng cậu) không gọi là “biển động” mà gọi là “sấm”: “Biển Đông sấm động.” Đó là những đêm “chớp bể mưa nguồn” như trong thơ Trần Tế Xương vậy.


Ca dao, ai nấy cũng thường nghe khi còn nhỏ, cũng gọi biển ấy là biển Đông. Bài ca dao sau đây thì chưa rõ hẵn.

Ai đi đường ấy hỡi ai?!
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm?
Tìm em như thể tìm chim!
Chim bay biển bắc em tìm biển Đông!

Hai câu sau đây nói rõ hơn, xác định biển ở phía đông là “biển Đông”, tức là biển của người Việt Nam chúng ta.

Anh mong gởi cá cho chim
Chim bay ngàn dặm cá chìm biển Đông!

Biển Đông sóng dậy bốn mùa
Ai cho bậu uống thuốc bùa bậu mê!

- Gởi cá cho chim là gởi một món ăn cho người... yêu. Người yêu thì bay xa ngàn dặm. Cá thì chìm ngoài biển Đông, là biển phía đông của nước ta, cũng có nghĩa là biển của ta.

- Biển Đông thì lúc nào cũng có sóng, giống như bậu lúc Câu ca dao gây ấn tượng nhiều nhứt cho chúng ta là hai câu sau:

Dã tràng xe cát biển Đông,
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì!

Khi nước biển rút xuống, bãi cát bên bờ biển bày trơ ra, những con dã tràng (giống như con cua, nhỏ hơn cái nắp keng của chai bia, tên nôm na là con “còng”), xuất hiện bên bờ biển, lấy càng vo những viên cát nhỏ, nhỏ hơn cái nút áo. Rồi nước thủy triều lên, đánh tan những viên cát đó. Chúng xe cát để làm gì? Giống như người con trai đi làm rể công khó ở nhà vợ chưa cưới, cuối cùng không cưới được vợ, như công dã tràng xe cát vậy.

Câu tục ngữ sau đây, dạy về luân lý, hay hơn nhiều: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Câu nầy cũng có nghĩa rằng Biển Đông là biển của người Việt Nam.

Sự sai lầm của người Tây phương

Đi học, xem sách được rồi, tôi thấy trong sách Địa Lý cấp tiểu học trước 1945, ghi biển Đông là “Biển Nam Hải.” Tôi ngờ. Có lẽ Sách giáo khoa địa lý thời Pháp thuộc, có lẽ dựa vào sách Người Tây, khi nhìn về phương Đông, họ chỉ thấy có hai nước lớn: Tàu và Ấn Độ. Kha Luân Bố, năm 1492, khi tới được Tân Thế Giới, tưởng lầm là phía đông Ấn Độ, nên gọi người “mọi da đỏ” là Indian, người Ấn Độ.

Còn Tàu?

Sau khi vua Quang Vũ nhà Hán mở mang “con đường lụa” (Silk Road) hay còn gọi là “Con Đường hồ tiêu” (Spice Road), Marco Polo  theo con đường nầy sang Tàu làm quan 12 năm, đời nhà Nguyên (Mông  Cổ), rồi anh chàng Polo về lại châu Âu, viết sách giới thiệu về nước Tàu,  khiến người Tây phương chỉ biết bên trời Đông chỉ có Trung Quốc,  (nước ở giữa, chung quanh chỉ là phiên ly). Ngoài “Chung Côốc”, họ không biết gì hơn, và cũng không cần biết gì hơn, cho nên bán đảo Đông Dương (Việt Nam, Lào, Miên), họ gọi chung một tiếng là “Indo-China”, có nghĩa một nửa là Ấn Độ, một nửa là China (Trung Hoa) cho gọn sổ sách mà không cần phân biệt, không cần biết ba dân tộc Việt Miên Lào ở bán đảo ấy là dân tộc nào, chẳng có máu mủ, giòng họ gì với dân tộc của đức Khổng Tử hay dân tộc của đức Thích Ca Mâu Ni cả.

Đến thế kỷ 19, họ gọi chung vùng nầy Đông Nam Á (tên gọi ngày nay), là Viễn Đông (Extrême Orient). Ba dân tộc nầy chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu và văn hóa Ấn Độ. Nó cũng giống như người Tây Âu chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-La  vậy thôi. Rõ ràng, những nhà địa lý, thám hiểm, các ông cố đạo thế kỷ thứ 15, 16, 17... khi đến Đông Dương, chẳng chịu động não một chút  nào, nên mới gọi ẩu biển Đông của người Việt là “Nam Hải” (biển phía Nếu người Tây phương hồi đó, nhất là mấy ông cố đạo đi tìm hiểu kỹ một chút thì mấy ông sẽ thấy rằng, ngày xưa, người Tàu không  gọi Biển Đông của ta là Nam Hải, mà gọi là Giao Chỉ Hải, tức là biểncủa người Giao Chỉ.  

 Ít ra, người Tàu khi đặt tên Giao Chỉ quận, biển đó là Giao Chỉ hải, có nghĩa đất Giao Chỉ là của người Giao Chỉ, biển vùng đó là biển của người Giao Chỉ, mà người Giao Chỉ, theo lịch sử, rõ ràng không phải  là người... Tàu. Họ chỉ bị người Tàu đô hộ. Sau một ngàn năm, họ giành  được quyền tự chủ, đuổi người Tàu chạy về phương bắc. Cột đồng Mã  Viện ghi “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” thì nay cột đồng không thấy  đâu hết, mà dân tộc Giao Chỉ thì vẫn tồn tại. Trong ý nghĩa đó, chúng ta  hiểu câu thơ đầy ý tự hào của Hoàng Cao Khải khi vịnh về Hai Bà Trưng:

Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.

Cột đồng Đông Hán tức là cột đồng Mã Viện dựng lên, thời Đông Hán, như đã nói ở trên. Tây Hồ, tức Hồ Tây, tên cũ là Hồ Lãng Bạc, có sử có khi viết là sông Hát, tên chữ là Hát Giang, nơi hai chị em bà Trưng tự trầm. Sách “Đại Nam Quốc Sử diễn ca” của Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái viết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà như sau:

Uy thanh động đến Bắc phương
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài

Thằng bé Hoàng Long Hải nầy, tên hồi nhỏ là Hoàng Thế Đức, cũng khi còn nhỏ, trước năm 1945, cảm thấy khó chịu như thế nào ấy, khi thấy trong sách địa lý “cấp tiểu học” (cấp 1 bây giờ), ghi Biển Đông là biển Nam Hải.

Người dân nước nào hoạt động ở biển Đông?

Người Tàu, người Việt đều đã hoạt động, như đánh cá ở biển Đông. Người Việt đánh cá ở biển Đông, có lẽ cũng không nhiều, vì đi đánh cá xa, cần có tàu lớn, có khi neo ghe ở Hoàng Sa nghỉ chân, “nghe gà bên Tàu gáy”. Tôi đã hỏi một ông chú họ, thời Pháp thuộc ông đăng lính Khố Xanh (“địa phương quân” của Khâm Sứ Trung Kỳ), có  thời ra đóng giữ Hoàng Sa, về câu chuyện “nghe gà bên Tàu gáy”. Ông chú tôi cười giải thích:

- Khâm sứ Trung kỳ có cho lính đóng đồn ở Hoàng Sa. Mỗi phiên ra Hoàng Sa là sáu tháng, di chuyển bằng ghe buồm, từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa rồi quay lại. Khoảng cách từ Hoàng Sa tới Đà Nẵng và từ Hoàng Sa tới bờ biển phía nam đảo Hải Nam gần bằng nhau (tính phỏng  chừng). Người Việt Nam đi đánh cá ở biển Đông thường dừng chân ở Hoàng Sa. Người Tàu Hải Nàm đi đánh cá ở biển Đông cũng nghỉ chân ở đó. Nghe tiếng gà trên thuyền đánh cá của người Tàu Hải Nàm gáy, người ta cũng cho là gà bên Tàu gáy, ý muốn nói địa điểm của Hoàng Sa  là “xa lắm”, chứ không có nghĩa rằng Hoàng Sa gần Tàu hơn gần Việt Nam.

Có lẽ người Việt đánh cá ở biển đông từ lâu lắm, từ trước thời chúa Nguyễn, bởi vì đầu thế kỷ 17, theo “Wikipedia”, chúa đã cho: “tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hóa vật do lấy được từ những tàu đắm.”

“Theo “Phủ Biên Tạp Lục” của Lê Quý Đôn thì: “Phủ Quảng  Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía  Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia phải đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy... Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội  Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc  thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu (nước ngoài bị đắm vì bão),... Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp,...

Họ Nguyễn đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc  người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình  nguyện đi thì cấp giấy sai đi,..., cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải,  cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên,..., cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản... Hoàng Sa gần phủ Liêm Châu đảo Hải Nam, người đi thuyền có lúc gặp thuyền cá Bắc Quốc,...”

“Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” viết: “Xã An Vĩnh, huyện  Bình Dương ở gần biển. Ngoài biển, phía Đông Bắc có đảo [Hoàng Sa] nhiều núi linh tinh, đến hơn 130 ngọn núi. Đi từ núi [chính] ra biển (tức sang các đảo khác) ước chừng một vài ngày hoặc một vài trống canh. Trên núi có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước 30 dặm, bằng phẳng rộng rãi... Các đời chúa Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 người, người làng An Vĩnh, thay phiên nhau đi lấy hải vật. Hàng năm, cứ đến tháng 3, khi nhận được lệnh sai đi, phải đem đủ 6 tháng lương, chở 5 chiếc thuyền nhỏ ra biển, 3 ngày 3 đêm mới đến đảo ấy (tức Hoàng Sa)... Đến tháng 8 thì đội ấy lại về, vào cửa Yêu Môn (tức cửa Thuận An) đến thành Phú Xuân đưa nộp.”

Năm 1686: (năm Chính Hòa thứ 7) Đỗ Bá Công biên soạn “Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư” trong “Hồng Đức Bản Đồ” hay “Toàn Tập An Nam Lộ” trong sách “Thiên Hạ Bản Đồ”. Tấm bản đồ trong “Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ” được vẽ theo bút pháp đương thời với lời chú rất rõ ràng: “Giữa biển có một dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) dài tới 400 dặm... Họ Nguyễn mỗi năm và cuối mùa Đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn...”, còn bản đồ vẽ trong Toản Tập An Nam Lộ thì ghi chú rất rõ địa danh Bãi Cát Vàng trên biển khơi phía trước của những địa danh trên đất liền như các cửa biển Đại Chiêm, Sa Kỳ, Mỹ Á, phủ Quảng Nghĩa và các huyện Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Hoa. (hiện nhà nước CHXHCN Việt Nam còn lưu giữ các bằng chứng lịch sử này).

Năm 1753: Có 10 người lính của Đội Bắc Hải đến quần đảo Trường Sa: 8 người xuống đảo, còn 2 người thì ở lại canh thuyền. Thình lình cơn bão tới và thuyền bị trôi dạt đến cảng Thanh Lan của Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa cho điều tra, và khi biết các sự kiện, đã cho đưa 2 người lính Việt Nam về. Lê Quý Đôn viết: “Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Vạn lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên Năm 1816: Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thủy trình.

Năm 1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiểu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.

Không rõ tài liệu Tàu nói như thế nào về Hoàng Sa, Trường Sa mà nay họ gọi là Tam Sa. Tam Sa là tên do mấy chú Ba ở Bắc Kinh mới đặt hay nó đã có từ lâu trong lịch sử Trung Hoa.

Phục vụ trong chính quyền miền Nam VN một thời gian ở vùng Hà Tiên - Rạch Giá, tôi nhận ra một điều, xứ nầy có nhiều người mà dân Nam Bộ thường gọi đùa là “đầu gà đít vịt”, tức là người Miên lai Tàu. Khu vực địa lý Hà Tiên - Rạch Giá có nhiều người trông như người Miên, hoặc nửa Miên nửa Tàu, mang họ Tàu như họ Phan (Phan Chánh Toul, cảnh sát chế độ cũ), họ Dương (Dương Nganh, tự Xà Rum, hồ sơ trận liệt ghi là cựu bí thư xã Dương Hòa, quận Kiên Lương, Rạch Giá), Dương Yết, Dương Tu, anh em Dương Bộ Hương, Dương Bộ Hành (cảnh sát chế độ cũ), Quách Thị Hoa, Danh Tăng (giao liên Việt Cộng ấp Hòn Heo, xã Dương Hòa), Châu Ai (nguyên xã trưởng xã Bình Trị, Kiên Lương), Trần Ghét Xe (giao liên Việt Cộng xã Bình Trị). Và nhiều người nữa, tôi không nhớ hết, một ít mang họ Miên như họ Danh, phần đông mang họ Tàu như Phan, Dương, Châu, Trần, Quách và cả Mạc Cửu, (họ Mạc) và Lâm Tấn Phát (họ Lâm, thi sĩ Đông Hồ), v.v.

Tổ tiên họ là ai?
Dĩ nhiên là người Tàu. Nhưng Tàu nào? Tàu Bắc Kinh, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến hay Hải Nam.

Người Tàu ở vùng Hà Tiên nổi tiếng nấu cơm gà ngon. Họ có một thứ nước chấm đặc biệt, nhưng giấu nghề kỹ lắm. Ở Huế, trước chợ Đông Ba, buổi tối có xe cơm (thố) gà đặc biệt ngon. Ông chủ là người  Tàu Hải Nàm. Cơm gà là món ăn của người Tàu Hải Nàm. Vậy có phải tổ tiên  những người Tàu “đầu gà đít vịt” ở vùng Hà Tiên là dân cướp biển Hải  Nàm, sau khi giải nghệ, không về lại Hải Nàm mà định cư ở đây?

Tôi cũng có một “thắc mắc” nữa! Ở ấp Hòn Chông, xã Bình Trị, có một gia đình Tàu, thỉnh thoảng mới nấu cơm gà do có yêu cầu. Xã trưởng Bình Trị mời cơm gà cho nhân viên Ty Xã Hội Kiên Giang ở nhà ông già Tàu nầy. Tôi được tham dự bữa cơm ấy và chợt để ý hai cô con gái chủ nhà cỡ 15, 17 tuổi có hai bàn tay to quá khổ bình thường. Sao có việc nầy? vì lao động cực nhọc? Không! Để ý, tôi thấy cả gia đình nầy  đều có bàn tay to như thế? Sách tướng nói rằng bàn tay to là tướng giết người. Không rõ gia đình nầy có liên hệ tổ tiên gì với những tay cướp biển Hải Nàm ngày xưa trong vùng vịnh Thái Lan không? Điều nầy,  chắc phải nhờ các nhà “nhân chủng học” mới trả lời được!

Vùng vịnh Thái Lan, từ thế kỷ 16, 17 đã nổi tiếng là “vùng cướp  biển”, quê hương của hải tặc. Bọn cướp biển phần đông là người dân Hải Nàm (dân ở đảo, đi biển giỏi). Khi về già, giải nghệ, họ không về lại Hải Nàm vì nhiều lý do: sợ chính quyền Hải Nàm biết họ là dân cướp biển, vì kinh tế, v.v. Họ định cư ở những vùng quanh vị Thái Lan như miền Tây Nam bộ (Hà Tiên, Rạch Gía, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng) ở vùng Kampot, bờ biển Kampuchia và Thái Lan. Họ có nhiều tiền bạc, chôn dấu ở vùng nầy. Câu chuyện “Kho vàng Hòn Tre” (Hòn tre gần Rạch  Giá) của Sơn Nam cũng không ngoài cái giàu của bọn cướp biển.

Biết người dân có tiền, Mạc Cửu bèn mở sòng bạc cho mau giàu. Sách “Gia Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức chép:

Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải  Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu  Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn (nhưng mãi đến năm Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng  trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ (hay Trũng Kè, Lũng Cả -Réam), Cần Bột (Cần Vọt - Kampôt), Hương Úc (Vũng Thơm - Kompong Som), Giá Khê (Rạch  Giá), Cà Mau lập thành bảy xã thôn. Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sông, do đó mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sông).

Họ Mạc nhờ có công mở mang vùng đất Hà Tiên nên mới được chúa Nguyễn phong làm “Khai Quốc Công Thần”.

Sự xuất hiện của người Tàu ở vùng nầy, vùng vịnh Thái Lan tạo ra cho tôi một câu hỏi. Người Tàu đi biển về phương Nam (Đông Hải của ta) và tới vịnh Thái Lan từ lúc nào? Sách sử của ta chỉ nói tới những người “phản Thanh phục Minh” Mạc Cửu, Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài... thua chạy về phương Nam nhưng không nói gì công việc người Tàu đã từng xác lập chủ quyền của họ trong những vùng biển họ đã tới, đã định cư. Thậm chí như Mạc Cửu, khi đã ổn định xong vùng Hà Tiên, thì đem vùng đất ấy mà dâng cho chúa Nguyễn chứ không dâng cho vua Tàu. Họ di chuyển trên các vùng biển đó, nhưng không màng tới việc “mở mang bờ cõi” ở những hòn đảo ở đó. Vậy thì Hoàng Sa, Trường Sa là của Tàu làm sao được nhỉ?

Người Tàu lục địa có hai việc đáng lo: lãnh thổ rộng, bị xâu xé, chia rẽ là “truyền thống” của người Tàu. Họ lo việc “thống nhất nước Tàu” cũng đã “hụt hơi”, đâu có thời giờ mà nghĩ tới các hòn đảo hoang. Việc đối phó với các cuộc nổi dậy, chống đối, xâm lăng nước Tàu của Tân Cương, Nội Mông, Mãn Châu, Tây Tạng, An Nam thì vua quan Tàu cũng đã “mệt” lắm rồi, hơi sức đâu mà lo dựng bia, đóng đồn ở Hoàng Mãi đến đời nhà Minh, với công việc của Trịnh Hòa, người ta mới thấy vua Tàu mới lo tới việc phát triển nước Tàu bằng đường biển.  Trước Trịnh Hòa và sau đó, ngành hàng hải cũng như hải quân của nước Tàu chẳng có gì đáng kể.

Trịnh Hòa, gốc là người Hồi, quê ở Vân Nam, là thái giám, được Minh Thành Tổ ưu ái vì ông có công trong việc tranh đoạt ngai vàng cho nhà vua. Ông chỉ huy một hạm đội của Tàu tới eo biển Malacca vào thế kỷ thứ 15. Đời Minh Tuyên Tông, Trịnh Hòa thực hiện thêm một chuyến đi nữa. Sau đó, công việc đi biển của Trịnh Hòa chấm dứt.

Theo tài liệu của người Tàu thì Trịnh Hòa đã đi rất nhiều nơi ở Châu Á, châu Phi, Hồng Hải, vịnh Ba Tư... và cả Darwin phía bắc Châu  Đại Dương. Với Đài Loan, ông lui tới những 7 lần không rõ để làm gì!  Có phải ông ta muốn xác lập quyền hạn của vua Tàu ở đó. Tuy nhiên, trước kia cũng như bây giờ, người Đài Loan vẫn tự gọi họ là người Đài Loan (Taiwanese) chớ không bao giờ nhận họ là người Tàu (Chinese).

Có thể người Tàu chỉ dòm ngó tới những vùng đất rộng, dân đông, nhiều tài nguyên, chớ không thèm ngó ngàng gì tới Hoàng Sa hay Trường Sa, nên họ chẳng cần phải cắm mốc hay dựng bia ở những nơi này.

Ngày nay, vì kinh tế phát triển, mà dầu lửa là máu của nền kinh tế hiện đại, nên mới có việc họ diệu võ dương oai để cướp Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông của ta để giành các mỏ dầu lửa ở vùng nầy.

Việc người ngoại quốc lui tới biển Đông, quan hệ với triều đình Huế để xin giao thương hay xâm lăng nước ta, là một chuỗi dài lịch sử quan hệ quốc tế khá phức tạp, giữa nước ta và liên quân xâm lăng Pháp - Y pha Nho, có sự góp tay của các ông cố đạo, hay hành động hung hãn của (Mad) Jack Percival, thuyền trưởng chiến hạm USS. Constitution đến Đà Nẵng để xin triều đình Huế thiết lập giao thương với Mỹ. Trong khi chờ đợi triều đình Huế trả lời, thì Mad Jack, nghe lời một giáo dân Việt Nam, báo cáo giám mục Lefèvre đang bị bắt giam  ở Huế vì tôi giảng đạo trái phép. Mad Jack nổi cơn điên - như dân hàng hải đã gọi anh ta là Mad, bắn phá Đà Nẵng, giết chết mấy chục dân thường, làm bị thương một số người khác, bắt một quan lại để làm con tin, nhằm buộc triều đình Huế phải thả giám mục Lefèvre ra, trục xuất Triều đình Huế lên án hành động của Mad Jack, yêu cầu Mỹ phải xin lỗi. Chính phủ Mỹ đã phái một lãnh sự đến Đà Nẵng để thực hiện việc xin lỗi nầy, nhưng sau đó không đến Huế được thành ra việc không thành. Đó là mối “quan hệ đầu tiên giữa Mỹ và An - Nam. (Xem thêm “The Red Pony” cùng tác giả trong “Viết Về Huế” tập 3. Văn mới xuất bản.)

Hoàng Sa và Trường Sa của ai?

Căn cứ trên lý thuyết Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Người Việt Nam có thể căn cứ trên tài liệu lịch sử như “Phủ Biên Tạp Lục”, “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí”, “Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư” để xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của nước ta.

Không rõ người Tàu có tài liệu nào nói rằng họ cũng đã đến Hoàng Sa, Trường Sa thực hiện những công việc như tổ tiên chúng ta đã làm. Dù có hay không có, thì người Tàu cũng có thể làm giả tài liệu một cách dễ dàng. Người Tàu rất thiện nghệ và có truyền thống làm hàng giả. Ngày nay có vậy mà xưa cũng không chắc khác gì.

Việc “tranh nhau bằng mồm” thì diễn ra đều đều, không ai chịu thua ai.

Vây nếu khi đưa nhau “đáo tụng đình” ở tòa án quốc tế, chắc chi ai hơn ai, dù tài liệu giả hay thiệt, mà mấy ông tòa ngồi ở cái gọi là tòa án gọi là quốc tế ấy, chắc gì có đủ trình độ để đọc sách chữ Tàu, chữ Việt. Vã lại chắc chi họ không “nghiêng ngửa” giữa các thế lực mạnh, yếu trên trường quốc tế hiện nay.

Tuy nhiên, người ta có thể căn cứ vào thực tế để phán xét, xác định Hoàng Sa, Trường Sa là của ai. Ngay từ thời Pháp thuộc, như tôi đã kể ở trên, chính quyền thực dân Pháp, tiếp nối công việc của vua chúa ngày trước, cho xây đài khí tượng ở Hoàng Sa, Trường Sa. Đó cũng là cách xác nhận chủ quyền trên thực tế. Sau đó, Pháp đưa đưa lính khố xanh ra đóng đồn ở Hoàng Sa, Trường Sa. Vì vậy, năm 1956, dưới thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, khi tổng thống Ngô Đình Diệm cho quân  đội đóng quân hẳn hòi ở hai đảo nầy thì nhiều quốc gia phản đối, nhưng không nước nào có hành động quân sự chống đối. Các nước phản đối bằng lời nói suông thì có Tàu Cộng, Đài Loan (danh nghĩa là Trung Hoa Quốc gia), Phi Luật Tân, Brunei, Mã Lai, Thái Lan, v.v. và cả Pháp.

Việc quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng quân ở Hoàng Sa để giữ đảo kéo dài từ năm 1956, (tiếp nối công việc của các vua nhà Nguyễn và Thực dân Pháp), đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, Trung Cộng dùng vũ lực xâm lăng Hoàng Sa, qua việc “ngó lơ” của các Tàu chiến Mỹ thuộc hạm đội 7 hoạt động gần đó.

Do tình hình đánh chiếm Hoàng Sa của Tàu Cộng, thực tế cho thấy khi binh lính của nước An Nam ngày trước, thời các chúa Nguyễn hay các vua triều Nguyễn, và ngay cả thời gian sau nầy, khi quân đội của nước An Nam, như tên gọi ngày xưa, cũng như Việt Nam, như tên  gọi sau nầy, chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa là không gây ra nổ súng, chiến tranh với một quốc gia nào cả, không gây hấn bằng võ lực với ai cả.

Ngược lại, khi Trung Cộng chiếm Hoàng Sa năm 1974, đã gây ra chiến tranh với Nam Việt Nam. Họ đã thắng và miền Nam Việt Nam đã thua. Người ta có thể lý luận như sau:

a)- Trong thực tế, khi một nước đem quân đánh chiếm một vùng đất hay đảo không có dân chúng, không có chính quyền, không có quân đội thì việc làm đó, chưa hẳn là sai, vi phạm luật lệ quốc tế.

b)- Ngược lại, khi Trung Cộng đem chiến thuyền tấn công Hoàng Sa, trên đó đã có quân đội nước khác đang trú đóng, dùng võ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ, thì nó có nghĩa rằng Trung Cộng đã xâm lăng, sai hoàn toàn.

Chính phủ nước Việt Nam hiện nay, trên nguyên tắc, có thể đưa ra lập luận như trên (a và b) để xác định chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Hoàng Sa thuộc quyền Việt Nam Cộng Hòa khi bị Trung Cộng xâm chiếm. Tình hình ấy bắt buộc Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn  Dũng phải nại chính quyền Miền Nam Việt Nam (hay nói cách khác là Việt Nam Cộng Hòa) khi muốn nói với quốc tế rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

Việc làm nầy của Nguyễn Tấn Dũng mang tính chất thực tế lịch sử, không mang tính cách hòa hợp hòa giải giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam.

Hải ngoại huyết lưu hồng?

Sấm Trạng Trình có câu:

Ô hô thế sự tự bềnh bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung Mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng ....

Các câu 1, 2 và 3 người ta đã bàn nhiều, kẻ trật người  trúng, không nói chắc được. Tuy nhiên, câu 4 “Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng” là câu người ta nghĩ rằng sẽ có đánh nhau lớn ngoài biển đông.

Ở Biển Đông, đánh nhau thì cũng có đánh rồi. Đó là các trận Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng có lẽ người ta có thể cho rằng hai trận đánh ấy chưa có đủ “kình ngư”, và “huyết lưu hồng” còn ít chăng?

Vậy thì bao nhiêu mới đủ. Phải đánh nhau lớn hơn? nhiều hơn? Vai trò chính trong một hay nhiều trận đánh lớn sẽ xảy ra dĩ nhiên người Việt khó tránh khỏi. Kẻ thù của người Việt là Tàu Cộng chớ còn ai vô đây. Nhưng tại sao phải là 2 nước nầy?

Nhà văn Ngô Thế Vinh, sau chuyến di ngược sông Cửu Long có viết cuốn sách “Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng.” Có thể ông ta cho rằng nước sông Cửu Long cạn thì sẽ có đánh nhau ngoài Biển Đông.

Hết Tàu nay đến Lào xây đập thủy điện trên sông Cửu Long thì nước sông nầy cạn đi là đương nhiên. Nước sông cạn, nước biển tràn vào, đồng bào sông Cửu Long không tránh khỏi bị nhiễm mặn, làm sao trồng lúa? Trong khi đó, ngoài Biển Đông thì Tàu gây bao nhiêu xáo trộn, giành biển, giành cá, giành tài nguyên. Như thế là Việt Nam hai đầu bị ép, liệu có ngồi yên được chăng?

Biết tin ai bây giờ?

Khi người Mỹ thay người Pháp “dính líu” trực tiếp vào Việt Nam, Hạm Đội 7 chạy lui chạy tới ngoài biển Đông là có mục đích. Gây áp lực với Tàu Cộng với Liên Xô hơn là với Bắc Việt. Trong suốt mấy năm chiến tranh, nhất là kể từ sau khi nhà Ngô sụp đổ, Bắc Việt đi gần với Liên Xô hơn với Tàu, hoạt động của Hạm Đội 7 ngoài biển Đông lại cần thiết hơn. Bên cạnh đó, ngày 21 tháng 2 năam 1972, tổng thống Mỹ Nixon đến Bắc Kinh bắt tay với Mao xếnh xáng, thì áp lực quân sự của Mỹ đối với Bắc Việt phải mạnh hơn là điều cần thiết, nhứt là sau khi hiệp định hòa bình Ba-Lê năm 1973 được ký kết. Rõ ràng Mỹ - Tàu gần nhau hơn thì việc giảm thiểu thế lực của Liên Xô ở Bắc Việt là điều cần lắm! Trong ý nghĩa đó, Hạm Đội 7 làm ngơ cho hải quân Tàu đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 là sự cố ý hẳn hòi. Thành ra, như người ta nói, “liên minh kinh tế” với Mỹ thì được; “liên minh chính trị” với Mỹ thì phải luôn luôn phải dè chừng.

Bước 1: Mỹ làm ngơ để cho Tàu Cộng chiếm Hoàng Sa.
Bước 2 là làm ngơ khi Bắc Việt dốc hết toàn lực tấn công miền  Nam VN, chấm dứt cuộc xâm lăng miền Nam của họ.

Bây giờ Hà Nội lại liên minh với Mỹ để giữ biển Đông?!

Nhắm bộ người ta có quên hay không những bài học lịch sử cay đắng khi liên minh với Mỹ, đến nỗi sau hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, ông thủ tướng Anh Churchill thề không bao giờ chịu nhìn vào
tượng Nữ Thần Tự Do dựng ở bến cảng Nữu Ước. Liệu Chú Sam và chú  Ba có hay không, bắt tay nhau để chia chác quyền lợi trên đầu trên cổ dân tộc Việt Nam khốn khổ nầy, miền Bắc, miền Nam đánh nhau trối  chết bao nhiêu năm, gây nên cảnh núi xương sông máu cũng vì nghe các “Chú” này xui dại?

Đời chúng ta sẽ còn thấy chiến tranh Đông Dương xảy ra một lần  thứ tư nữa, hay con cháu chúng ta sẽ phải đương đầu với một cuộc chiến  tranh chống Tàu, hay chống cả Mỹ lẫn Tàu vì họ sẽ bắt tay nhau chia  chác nguồn lợi ở Biển Đông.

Ai có thể đoán trước được tương lai sẽ ra sao?


Hoàng Long Hải