BÌNH THƠ CỦA CHÂU THẠCH
Khi tìm tài liệu đọc để viết bài CHỮ TÔI, CHỮ TA VÀ CÁI
TÂM LÀNH, tôi chợt có ý định thử tìm hiểu về phong cách bình thơ của nhà phê
bình văn học Châu Thạch nên cần mẫn ngồi đọc 130 bài bình thơ của ông. Đọc
xong, tôi phấn chấn, nảy thêm ý định “tận dụng sự đọc 130 bài bình thơ” để viết
một bài làm “kỷ niệm”... Tôi điện gặp nhà phê bình Châu Thạch, nói ý định của
mình, ông cười sảng khoái:
- “Vâng! Đặng Xuân Xuyến cứ viết theo đúng như những
gì Đặng Xuân Xuyến cảm nhận về Châu Thạch, như thế mới quý. Cám ơn Đặng Xuân
Xuyến trước nhé.”.
Nhà phê bình văn học Châu Thạch
Tôi liền cặm cụi ghi lại những cảm nhận của mình về phong
cách bình thơ của ông. Vì đây là bài cảm nhận của một đọc giả về một tác giả
nên cấu trúc bài viết và những dẫn giải đưa ra sẽ không mang tính nghiên cứu
khoa học, chỉ nhằm đáp ứng tiêu chí của bài: LAN MAN VỀ PHONG CÁCH BÌNH THƠ CỦA
CHÂU THẠCH. Vì thế, bài viết sẽ có những hạn chế, những thiếu sót khiến bạn đọc
không được vừa ý.
&.1
Đọc những bài bình thơ của tác giả Châu Thạch, tôi hay gặp
(nhiều) cách ông giả định khi bình thơ, tôi tạm gọi đó là phương pháp giả định
để liên tưởng và giả định để gợi mở trong cảm thụ thơ văn. Có thể nói, đấy
chính là phong cách đặc trưng, là cách nổi trội trong phong cách bình thơ của
tác giả Châu Thạch. (Đây chỉ là quan điểm cá nhân của tôi khi đọc Châu Thạch
bình thơ, không là bài phê bình của người viết phê bình, vì thế “thuật ngữ” giả
định để liên tưởng, giả định để gợi mở và một số “thuật ngữ” khác sẽ dùng trong
bài viết nếu chưa sát nghĩa hoặc không đúng, mong quý vị thể tất.)
Chẳng hạn, khi bình bài thơ Bến My Lăng của
Yến Lan, ông đã dùng phương pháp giả định để liên tưởng khi tiếp cận với ý thơ
(tứ thơ):
“Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Khổ thơ này cho ta liên nghĩ đến điều gì? Liên nghĩ đến vận
mệnh. Vận mệnh của một cuộc gặp, vận mệnh của một đời người, vận mênh của quốc
gia không tùy thuộc vào ta, có khi tùy thuộc vào phút giây nào đó. Bài thơ
không cho ta biết hai người có liên quan nhau không nhưng bài thơ cũng cho ta
đoán định đây là hai con người nghĩa khí. Một người có học, canh cánh bên lòng
nổi u uẩn. Một người đang mang trọng trách trong mình. Nếu họ gặp nhau và đưa
nhau qua đò biết đâu sẽ làm việc lớn, và chuyến đò kia sẽ là chuyến đò định mệnh.
Vì họ không gặp nhau, vì định mệnh không cho họ hội ngộ nên ông lái đò phải:
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Như vậy, người khách kia đi đâu không biết nhưng ông lái
đò đã phí cả thơi gian, phí đi kinh sử, mất đi chí lớn, u uất nép mình chèo đò
bao năm trên bến My lăng để đợi một người khách sang sông, người khách sẽ làm
cuộc đời ông thay đổi. Đó là nhân vật nào ta đâu biết. Một tri kỷ? một đồng
chí? Một lãnh tụ chăng? chứ dứt khoát không phải chỉ là một chàng kỵ mã bình
thường.”
Đúng ý hay sai ý của tác giả thơ chưa biết nhưng trong
trường hợp này, thì phương pháp giả định để cảm nhận Bến My Lăng theo
cách của tác giả Châu Thạch là cách tiếp cận hợp lý.
Hay như khi bình Một Buổi Trưa của
Bùi Giáng, mà theo Châu Thạch, thì đó là một bài thơ hay nhưng rất bí hiểm, khó
lý giải trong số “những bài thơ tỉnh táo của Bùi Giáng”. Và để bình bài
thơ này, tác giả Châu Thạch đã vận dụng phương pháp giả định để liên tưởng, giả
định để gợi mở, để “cảm” Một Buổi Trưa.
Xin mời cùng đọc trích dẫn:
“Em có định sẽ cùng ai kể lể
Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao
Vừng hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ
Một mùi hương nồng tụ ở nơi nào
“Em có định sẽ cùng ai kể lể” là một câu nghi
vấn mà không có dấu hỏi, nó có công dụng cho ta biết tác giả không
trực tiếp hỏi em mà tự nhủ trong lòng mình. Câu thơ này cũng cho ta
một phỏng đoán có thể em đang ở đó và cũng có thể em không có đó,
nghĩa là tác giả đang một mình giữa bao la suy nghĩ về em. “Em” trong
ba câu thơ còn lại như là một bóng ma. Bóng ma có một cuộc đời “hư
huyễn giữa chiêm bao”, sống ở một vùng “hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ
lệ” mà nơi đó là một nơi có thể hiểu là nơi vô định vì nó
có “một mùi hương nồng tụ” mà tác giả không biết “ở nơi nào”.
Vế thơ này cho ta cảm giác gì? Cảm giác một bóng
người lãng đãng trong một khung trời ảm đạm. Và cho ta một cảm nhận
gì? Cảm nhận đây là linh hồn của tác giả. “Em” ở đây không ai khác
là tâm thần của người nằm mộng. Cái tâm thần đó đã trải qua bao hệ
lụy của cuộc đời, nay nó bước ra từ tâm tác giả và hóa hình vào
trong cơn mơ ấy. Cái tâm thần đó u ám trong lòng tác giả, nay
nhân dịp thể xác êm ái trong giấc trưa, nó hiển hiện trong cơn mơ làm
nên một bóng dáng của bao điều hệ lụy.”
Cũng dùng phương pháp giả định để cảm thụ, Châu Thạch đã
thả nguồn cảm hứng của ông lạc trôi theo cánh “Chuồn Chuồn bay...”,
phiêu cùng thơ Trần Mai Ngân đến với cõi mộng:
“Chuồn chuồn mà bay được đến cổng trời là chuyện không
thể vì thân nó quá nhỏ, cánh nó quá mỏng. Vậy chỉ có con chuồn chuồn hóa
thân vào linh hồn tác giả thì mới đến được cổng trời trong mơ ước. Con chuồn
chuồn bây giờ trở nên vô hình vì nó nằm trong ảo tưởng. Đây thật sự là một giấc
mơ với muôn vàn khắc khỏai. Đây thật sự là tấm lòng ăn năn của người trong cuộc,
ăn năn vì số phận ly tan, duyên trời chia cách chớ không phải ăn năn vì phụ bạc
tình nhau. Bởi vì con chuồn chuồn đã yêu sâu đậm và thủy chung đến suốt một đời:
“Ví dầu…dẫu mộng không thành/ Buồn, vui vẫn đậu…ngọt lành vẫn xin”. Chuồn chuồn
mà bay đến cổng trời cũng có thể hiểu được là người xưa có thể đã trở thành người
thiên cổ không còn ở thế gian. Câu chuyện chẳng khác chi Điệp ngày xưa đã đến cổng
chùa để tạ lỗi với Lan. Điệp còn biết có Lan khi dây chuông bị cắt đứt
nhưng con chuồn chuồn của Trần Mai Ngân chỉ đến cổng trời trong mơ ước mà thôi.
Chính hình ảnh đó cho ta hiểu được niềm quặn thắt triền miên của người ở lại giữa
cuộc đời nầy. Hình ảnh cánh chuồn chuồn chuồn mỏng manh mà bay đến tận cổng trời
cũng cho ta thấy được tình yêu vĩ đại chất chứa trong lòng người đi tìm quá khứ.
Vế thơ thứ nhất đưa con người vào mộng, vế thơ thứ hai đưa con người vào đau, một
nỗi đau lớn chất nặng trên cánh con chuồn chuồn bé bỏng. Cái đẹp được pha trộn
nỗi đau làm tăng thêm nỗi đau và nỗi đau làm tăng thêm cái đẹp. Người đọc thơ ở
đây sẽ hưởng được thi vị trong nỗi đắng cay vì những câu thơ rất đẹp lướt qua một
cuộc tình ngang trái.”.
&.2
Tuy phương pháp giả định được ông vận dụng khá nhiều
trong các bài bình thơ nhưng không phải phương pháp này được ông ưu tiên làm
chính yếu, mà trong nhiều trường hợp, ông đã linh hoạt khi tiếp cận để tìm tòi,
khám phá sự “đặc biệt”, tinh tế về cấu tứ, âm điệu, kỹ thuật... của bài thơ, lấy
đó làm “nguyên liệu” cho việc “cảm” và bình thơ. Đấy cũng là một điểm nhấn đáng
lưu ý trong phong cách bình thơ của Châu Thạch.
Gặp được bài thơ hay, ông phấn khích, ông “sướng nâng”
như bị “lên đồng”. Chẳng hạn, khi đọc “Thềm Xưa, Em Đợi Người Về”,
trước kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ khá “đắc địa” của Hà Nhữ Uyên, ông như chịu sự
tác động của một loại chất kích thích cực mạnh, buộc ông “tự nguyện” thả hồn
phiêu cùng Hà Nhữ Uyên, “tự nguyện” “lên đồng” cùng Hà Nhữ Uyên:
“Thú thật, bốn câu thơ ở vế đầu đã làm tôi sướng nâng
và đọc những vế thơ kế tiếp tôi có cảm nhận mình đã thèm, đã thèm như chất kích
thích đầy hương vị của “Ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng” ngấm vào trong thớ
thịt:
Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
Câu thơ tôi yêu mến đầu tiên là câu “nhặt bâng quơ hạt nắng
ngủ trên bàn”: Bài thơ này tác giả dùng chữ “em” nghĩa là viết thay cho một người
con gái, và câu thơ này cho thấy được hết cả cái tâm hồn uỷ mị của cô em, cũng
cho ta thấy hết được cái khung cảnh cô liêu nơi cô ngồi, cả sự lãng mạn trong
suy tư của em. Nhặt hạt nắng là hành động của một kẻ tâm thần, nhưng tất nhiên
cô gái không là kẻ bị bệnh tâm thần, vậy nhặt hạt nắng là một cử chỉ siêu lãng
mạn của con người đa cảm, một hành động vô tâm nhưng bày tỏ một tính cách rất
nên thơ có trong một tâm hồn rất đẹp.
Câu thơ thứ hai tôi thích là “nhặt hoài mong lạc mười
ngón tay đan”. Ở câu thơ trên ta thấy cô gái”nhặt bâng quơ hạt nắng”, ở câu thơ
dưới ta thấy cô gái “nhặt hoài mong”. Vậy thì trong vế thơ này sự hoài mong của
cô gái được thể hiện trên hạt nắng. Cô gái nhặt hạt nắng như nhặt sự hoài mong
của mình, và tất nhiên hạt nắng thì trôi tuột qua “mười ngón tay đan” nên sự
hoài mong cũng trôi theo hạt nắng. Câu thơ liên kết sự mong đợi với hạt nắng ngủ
trên bàn thật là lý thú. Cái vô hình trong tâm được thể hiện bằng cái hữu hình
trên bàn, và cả hai được lồng trong bức tranh tỉnh vật chứa đựng sự sâu kín
trong hồn hoà điệu cùng phong cảnh.”
Nhưng cũng có trường hợp ông nhấn sâu vào âm điệu của bài
thơ, xoáy sâu vào cấu trúc của bài thơ để chọn cấu trúc, âm điệu của bài thơ
làm “chất xúc tác” cho việc cảm thụ và bình thơ. Ví dụ như khi ông bình bài thơ
“Chấp Chới” của Đặng Xuân Xuyến:
“Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn kim”
Ơi người nhớn nhác đi tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Người “xe chỉ luồn kim” là người vợ. Câu thơ cho ta
biết cô gái “líu ríu theo chồng” đã thành người “xe chỉ luồn kim”
cũng buồn “se sắt”. Còn người ở lại thì lang thang đầu ghềnh và mê mải
trong tâm đi tìm quá khứ.
Khổ thơ với những vần thơ có thể gọi là “cà
giựt”, nghĩa là nó ngắt khúc từng ý thơ và tứ thơ không dính dáng
gì nhau, nhưng chính cái “cà giựt” đó làm cho tiếng thơ trở nên
dập dồn, kích thích người đọc, làm căng thẳng cảm xúc và trọn vẹn
gói vào đó niềm đau của đôi trai gái thất tình.
Qua khổ thơ thứ ba tác giả dùng từ ngữ như những
nhát búa đập liên tục vào điểm yếu của con tim, làm cho đau đớn, làm
cho rỉ máu, làm cho nghẹn ngào, uất ức:
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.”
&.3
Một điểm nhấn nữa trong phong cách bình thơ của Châu Thạch
là ông bình thơ bằng tâm thế của người cảm thụ thơ nên trước hết ông thả hồn
vào bài thơ để phiêu cùng tác giả tới mọi ngóc ngách của bài thơ, để tìm cho được
sắc thái riêng của bài thơ, để cảm thụ được hết vẻ đẹp của bài thơ và khi viết
lời bình, ông cố gắng tiết chế cái tôi của người “phê bình văn học” sao cho hài
hòa, hợp lý để lời bình được chân thực, khách quan.
Ví dụ, Mơ Trăng tôi viết trong
tâm trạng: khi thấy người yêu vội vã tận hưởng những phút giây ân ái, cuống
quýt thỏa mãn cơn khát thèm thể xác, tôi lặng người, đớn đau, thấy tội nghiệp
cho tình yêu em đang dâng hiến, và cũng xót xa, tội nghiệp cho cuộc tình của cả
hai. Tôi muốn đẩy em ra, muốn hét lên: - Đừng yêu anh nữa! Hãy tránh xa anh đi!
Nhưng tôi không làm được. Đúng ra là tôi không thể làm thế nên lại quấn lấy em,
gồng lên để hòa vào cơn khát thèm thể xác với em. Tôi đã tả rất chân cuộc tình ấy,
ngay từ khổ thơ đầu:
Em rướn mình hà hít nụ hôn anh
Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội
Môi khóa môi mà sao xa vời vợi
Đêm cuống cuồng khỏa lấp nỗi chơi vơi.
Và tôi run người khi đọc những lời bình của ông vì đã gặp
lại mình trong cuộc tình ấy: “Bây giờ có hai Đặng Xuân Xuyến, một Đặng
Xuân Xuyến đang vùi trong hương hoa của tình yêu và một Đặng Xuân Xuyến
đang vùi trong trũng sầu bi, khắc khoải và đắng cay. Lúc này nhà thơ
đương yêu hay là không yêu? - Đâu biết được. Chỉ biết nhà thơ đang ôm
một khối tình, khối tình nóng cháy như hỏa diệm sơn mà cũng rét
cóng như băng giá miền cực bắc.”
“Phải chăng thứ tình yêu bình thường, những ân
ái bình thường không đáp ứng được cho một trái tim nhạy bén, một tâm
hồn thơ luôn mơ mộng sự trong trẻo, sự vô biên, dây quyến luyến vượt
quá cuộc đời. Con người thật của Đặng Xuân Xuyến ra sao ta đâu biết
được nhưng thơ Đặng Xuân Xuyến quả là đúng như vậy.”
Tôi không biết các nhà thơ khác sáng tác thế nào nhưng những
bài thơ tôi viết là những tiếng lòng chân thật của tôi, dù đớn đau hay vui mừng,
dù chán chường hay phấn chấn thì những cảm xúc trong thơ của tôi cũng phản ánh
rất chân thật tâm trạng, tình cảm của tôi, tuyệt không hư cấu. Vì thế, khi đọc
những dòng cảm nhận của ông về thơ của tôi, tôi như lần nữa được sống lại với
những tâm trạng, cảm xúc mà tôi đã mượn thơ để giãi bày. Nếu không thả hồn để
phiêu cùng bài thơ, để tìm cho được cái hồn, cái sắc thái riêng của bài thơ thì
Châu Thạch không thể viết được những dòng cảm nhận như được moi ra từ gan ruột
của tác giả.
Ví dụ, khi đọc tập thơ Cưỡng Xuân,
Châu Thạch đã viết:
“đọc“Cưỡng Xuân” của Đặng Xuân Xuyến, ta có hai sự
rung động cùng một lúc. Đó là sự rung động của con tim yêu chân tình, say đắm
và độ lượng. Cùng lúc đó cũng bốc lên trong bầu máu nóng của ta một thứ hương
tình cúa thể xác. Hai thứ hương đó quyện vào nhau cho ta sự khoái lạc lạ lùng
trong nỗi đau khổ quặn thắt. Khoái lạc vì thơ Đặng Xuân Xuyến như ngùn ngụt ngọn
lửa của ái ân thể xác và của âu yếm tinh thần. Đau khổ vì thơ Đặng Xuân Xuyến
làm lạnh con tim, nỗi sầu được diễn tả như bông lơn nhưng làm cho người nghe quặn
lòng se thắt. Thơ đó không phải là thứ thơ hư cấu. Thơ đó là thứ thơ nở ra như
những bông hoa trường trải được nẩy mầm từ hạt của nó, hạt ấy đã bị vui dập
trong bao nhiêu biến động của đời.”.
Hay khi đọc Em Về Nhặt Chút Hương Phai của
Huỳnh Gia, Châu Thạch đã không đứng phía bên ngoài để “cảm” thơ mà ông thả hồn
mình phiêu cùng nữ sĩ Huỳnh Gia để cùng Huỳnh Gia cảm nhận bài thơ bằng những cảm
xúc chân thật được cất lên từ tiếng lòng của nữ sĩ:
“Mai em về thăm
xuân chưa ấm nổi đất trời
tìm đến đồi Cù
tìm về khung trời cũ
bức rào chắn phân ranh
cỏ úa màu trách cứ
mỏi mắt tìm không thấy điểm hẹn xưa
Trong vế thơ này hai câu thơ “Cỏ úa màu trách cứ/ mỏi mắt
tìm không thấy điểm hẹn xưa” làm người đọc thấy khung trời hoang sơ rộng vắng của
đồi Cù, mà sự rộng vắng có giới hạn ấy trở thành mênh mông vô tận trong tâm hồn
tác giả khi “mỏi mắt tìm” điểm hẹn xưa mà không thấy nữa. Cái lạnh của cuối
đông vẫn còn vì “xuân chưa ấm nổi đất trời” sẽ càng lạnh thêm biết bao khi người
về gặp “bức rào chắn phân ranh”. Đây là bức rào chắn phân ranh khung trời cũ
trên địa thế đồi Cù nhưng nó cũng là bức rào chắn phân ranh quá khứ và hiện tại
trong tâm hồn người quay lại. Vế thơ cho ta thấy tất cả sự tiêu điều, se lạnh của
khung cảnh trùm lên tâm hồn và nỗi dằn vặt trong lòng cũng thể hiện ra trên cỏ
úa, trên bức rào, trên điểm hẹn đã bị mất đi. Cảnh bây giờ hình như cũng gây trắc
trở cho người vì có lẽ cảnh và người ở đây cùng chung số phận, định mệnh như
nhau.”
&.4
Thêm một điểm nhấn “son” nữa về phong cách bình thơ của
Châu Thạch là khi bình thơ, ông chịu khó tìm tòi để phát hiện ra những tinh tế,
những sáng tạo của nhà thơ trong bài thơ, rồi truyền tải nguyên vẹn, thậm chí
có phần dầy hơn, đẹp hơn những cảm xúc được thăng hoa của nhà thơ tới bạn đọc.
Cảm nhận về Hà Nội Quê Tôi của Lê
Mai là một ví dụ:
“Chùa Diên Hựu là của tôi!
Đóa sen tâm bừng nở ngát cõi người cho tôi hiểu vì sao
người Hà Nội cấp gạo thuyền giặc chết khỏi tha hương.
“Chùa Diên Hựu hay chùa Một Cột, là một
trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, có kiến trúc độc đáo như
một bông sen từ dưới nước vươn lên. Nhà thơ đem cái bông sen đó làm
biểu tượng cho tấm lòng nhân đạo của người Hà Nội ngày xưa, cùng
với dân ta đem lúa gạo của mình cấp cho quân giặc Minh xâm lược bị
thua trận có cái ăn mà quay về bản xứ. Cấp gạo cho giặc và xây chùa
Một Cột không liên quan nhau, nhưng nhà thơ đã khôn khéo dùng hình
tượng hoa sen của chùa, lấy kỳ quan đất nước sừng sững ngàn đời thể
hiện cho lòng vị tha của dân tộc là một kết cấu giữa văn hoá vật
thể và văn hoá phi vật thể vô cùng nhuần nhuyễn để tôn cao ý
nghĩa của hai cái đẹp giữa lòng thủ đô Hà Nội.”
Hay như đoạn được trích dẫn dưới đây trong bài Vài
Lời Biện Hộ Về Thơ Nguyễn Khôi, ông luận bàn thật “đắt” về từ “tắt
trăng”, một sáng tạo độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khôi:
“Với tôi Nguyễn Khôi dùng chữ “tắt trăng’ trong câu
chót là một tứ thơ sáng tạo, độc đáo, khác lạ và tuyệt hay đã nâng cả bài thơ
lên tầm cao thị vị. Nếu tác giả dùng chữ “lịm” hay chữ “khuất” thì câu thơ “Để
cả bầu trời phải lịm trăng” hay “Để cả bầu trời phải khuất trăng” chỉ có ý
nghĩa là trăng nhìn thấy sự lõa thể mà mê mẩn đến mờ đi ánh sáng hay trốn vào
đâu đó để ghé mắt nhìn trộm. Tứ thơ này đã cũ quá và đã lạc hậu vô cùng vì đã
có hàng ngàn thi nhân viết rồi từ xưa đến nay. Nguyễn Khôi dùng chữ “tắt trăng”
đã đưa trăng có cái nhân cách người, có cái đạo đức của chính nhân quân tử khi
trăng tự tắt ngọn đèn của mình, hay quay lưng đi không nhìn những người phụ
nữ tắm ao. Tứ thơ này hoàn toàn mới, diễn đạt một ý thơ chỉ sự thanh cao của
trăng, cũng chính bộc lộ sự thanh cao của tâm hồn tác giả mà từ xưa đên nay
chưa một ai nghĩ đến trong thơ.”
&.5
Bên cạnh những phương pháp chủ quan, bao gồm cả phương
pháp giả định và các phương pháp tiếp cận để cảm thụ thơ văn như đã dẫn giải ở
trên, Châu Thạch cũng có khi dùng cả phương pháp khách quan cho việc tìm tòi,
khám phá và cảm thụ thơ văn của ông. Ẩm Trời - Thơ Đặng Xuân Xuyến:
Một Phong Cách Tình Khác Lạ là một ví dụ:
“Ẩm Trời” là một bài thơ ngắn gọn tưởng
như nó bày tỏ một mối tình qua loa hời hợt nhưng không phải thế. Đọc
thơ, ta hiểu được tính cách của người trong thơ. Họ phải là những
người đã lăn lộn trong cuộc đời, vấp ngã trong tình trường, dày dạn
trong đối nhân xử thế, tinh tế trong lời nói. Họ có thể yêu nhau nhưng
cuộc đời còn nỗi éo le ta không biết được. Ta chỉ biết họ trân trọng
nhau trong lời nói bộc trực tưởng như là thô thiển.
Bài thơ hay là hay ở chỗ đó, diễn đạt cái kín
đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được, không mấy ai trân trọng, có
khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng là hay ở chỗ “nói tục giảng
thanh”. Đọc “Ẩm Trời” ta nghe tiếng thơ như của một nhân vật bất cần
đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem tình như cỏ rác, nhưng ngẫm kỹ,
đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy ở đó những tâm hồn đẹp mà ta
yêu quý, một mối tình có thể làm cho ta se lòng và cảm mến..”
Rõ ràng, ở đoạn vừa trích dẫn, tác giả Châu Thạch, bằng
phần nào sự hiểu biết của ông về tuổi tác, con người và tính cách... của (tác
giả thơ) Đặng Xuân Xuyến, ông đã dùng phương pháp khách quan - thông qua “tiểu
sử” tác giả - để “cảm thụ” bài thơ Ẩm Trời. Đây là một phương pháp được các nhà
phê bình văn học sử dụng khi phương pháp chủ quan yếu thế, có thể sẽ không phát
huy được hiệu quả như khi sử dụng phương pháp khách quan trong việc bình thơ.
Hay như trong bài Vài Lời Biện Hộ Về Thơ Nguyễn
Khôi, tác giả Châu Thạch đã dùng phương pháp khách quan - những hiểu biết
của bản thân từ thực tiễn về tiếng “nai tác” - để phản biện chỉ trích của Tiến
sĩ Ngữ văn Nguyễn Ngọc Kiên về chữ “nai tác” trong bài thơ Đêm Mộc
Châu của nhà thơ Nguyễn Khôi:
“Tiến sĩ viết như sau:
Nguyễn Khôi đã viết:
Đêm Mộc Châu lần đầu nghe nai “tác”
Dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng
Mới hay cuộc sống còn đói khát
Đốt cả đất trời kiếm miếng ăn
Theo chúng tôi đây cũng là một bài thơ hay của Nguyễn
Khôi. Hai câu đầu là tả thực. Hai câu cuối có sức khái quát lớn. Tuy nhiên,
theo chúng tôi, ở nơi mà đã có “dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng”, tàn phá
rừng, hủy hoại môi trường như thế thì không còn nghe thấy tiếng “nai tác” được
nữa. Có chăng chỉ còn nghe tiếng thạch sùng mà thôi!” Sau đó tiến sĩ còn khẳng
định: “Ở đây Nguyễn Khôi chắc cũng trong cơn ngái ngủ, mê sảng mà nghe thấy tiếng
“nai tác”. Vậy nên ta cũng không nên “chẻ sợi tóc làm tư” mà làm gì miễn là đó
là thơ hay!”
Đây là một nhận xét thật sự sai lầm. Người viết bài này
đã từng nhiều lần nghe suốt đêm tiếng nai tác trong một vùng tàn phá môi trường
hàng ngàn dặm. Sau 1975 tôi được điều đi khai hoang sản xuất trên vùng rừng
núi. Chúng tôi thường nghe tiếng nai “tác” bi thương kéo dài trong đêm. Hỏi
ra mới biết đó là tiếng của những con nai lạc bầy do môi trường bị hủy hoại. Bởi
sự thay đổi của núi rừng làm cho những con nai con thường lạc mẹ, thế là con gọi
mẹ hay mẹ tìm con cứ “tác” suốt đêm trường. Tiếng gọi ấy của nai khắc khỏi
trong đêm vọng vào hồn tôi cũng đang khắc khoải vì những biến động của cuộc đời
tôi thuở ấy.”
&.&
Có thể nói, Châu Thạch là một cây viết sung sức, đầy nội
lực, viết nhanh, viết khỏe và viết nhiều. Tôi không biết chính xác ông đã hạ
bút viết bao nhiêu bài phê bình thơ (và cả văn) nhưng để lan man tìm hiểu về
phong cách bình thơ của tác giả Châu Thạch như bài viết này, tôi đã phải ngồi
tham khảo chừng 130 bài bình thơ của ông mà theo số liệu thống kê của văn sĩ
Thái Quốc Mưu thì tính đến tháng 07 năm 2017, chỉ riêng bình thơ, tác giả Châu
Thạch đã “xuất xưởng” trên 200 bài. Quả thật, sức viết của ông rất đáng kính nể.
Những điểm mạnh trong phong cách bình thơ của nhà phê
bình văn học Châu Thạch khá nhiều, còn hơn những gì người viết đã lan man dẫn
giải nhưng trong phong cách bình thơ của ông vẫn còn vài điểm hạn chế mà theo
người viết, nhà phê bình văn học Châu Thạch rất cần khắc phục.
Tác giả Đăng Xuân Xuyến
Đó là:
1. Việc chọn bài còn để lọt những bài thơ chưa thật sự
hay, chưa đúng như tiêu đề bài viết. Điều này có thể do tình thân hữu, sự cả nể
khiến ông “tặc lưỡi”. “Nội lực” bài thơ không có nên dù người bình cố “tán”, cố
“đẩy” thì bài thơ vẫn chỉ như bông hoa kém tươi, lạc lõng giữa vườn hoa đua sắc
khoe màu. Vô tình, những bông hoa “cả nể” đó đã làm vườn hoa đẹp của nhà phê
bình văn học Châu Thạch giảm nhiều hương sắc.
2. Phương pháp giả định được ông vận dụng với mật độ khá
dầy trong các bài bình thơ, đã ít nhiều tạo ra hiệu ứng đơn điệu, đều đều, nhàm
chán trong việc tiếp thu, cảm nhận thơ văn của bạn đọc, khiến bạn đọc nảy sinh
tâm trạng nghi ngờ nhà phê bình đang cố “tán”, cố “lái” bài thơ theo dòng cảm
xúc đã được định hướng.
3. Việc “đồng màu chỉ khen không chê” trong hàng loạt bài
bình thơ của nhà phê bình văn học Châu Thạch. Có thể vì là người trọng tình cảm
nên ông tránh làm tổn thương người khác; hoặc có thể vì trân quý những tìm kiếm,
những thành công của tác giả thơ nên ông “không nỡ” nêu ra hạn chế, sợ tác giả
thơ sẽ nhụt chí... Cho dù với lý do gì thì việc “chỉ khen không chê” cũng làm
thiệt thòi cho cả 3 đối tượng: nhà thơ (không biết được yếu kém để sửa chữa,
nâng cao tay nghề), bạn đọc (không nâng cao được khả năng học và cảm thụ thơ
văn) và nhà phê bình (tác phẩm tạo ra đồng màu, đơn điệu).
*
Hà Nội, chiều 19 tháng 09 năm 2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
(http://dangxuanxuyen.blogspot.de/)