BÁC SÁU THAM QUAN HOA KỲ
Đây là bức thư của Sáu Ruộng gửi cho con sau 1 chuyến Mỹ du,
chuyện thật dí dỏm, châm biếm, và nhất là thật…”bôi bác”
(Người cộng sản
chân chính là người phải biết nghi ngờ tất cả mọi thứ, dù là sự thực hiển
nhiên, và phải biết tuyệt đối tin tưởng không điều kiện vào Đảng, dù là điều
chưa bao giờ nghe, thấy và biết.)
Hai thân thương,
Ba đi Mỹ thăm-thú theo lời mời của vợ chồng con Tư. Theo như Ba biết, thì chồng con Tư bảo rằng, Ba đã có sạn trong đầu rồi, không thể thay đổi và theo kịp trào lưu văn minh tiến hóa của loài người được, phải cho Ba đi một chuyến để mở mắt ra. Ba nói riêng cho con nghe, một người có lập trường cách mạng hơn 50 năm vững vàng như Ba, làm sao mà lay chuyển được?
Những thứ phồn vinh giả tạo
của xã hội tư bản bóc lột đang giẫy chết, không thể làm Ba lóa mắt xao động mà chao
đảo niềm tin tất thắng của xã hội chủ nghĩa, một xã hội văn minh tiên tiến, văn
minh cùng cực và tột đỉnh của loài người. Niềm tin tất thắng đó, rạng ngời
trong tim Ba, có từ ngày đem con ra Bắc tập kết, rồi băng Trường Sơn gian khổ về
Nam giải phóng, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào. Một lòng tin tuyệt đối vào
đường lối không bao giờ sai lầm của đảng ta.
Hôm
nay Ba được thằng Tư đem đi thăm thắng cảnh nước Mỹ. Theo lời thằng Tư nói rằng,
những thắng cảnh nầy, được nhân dân các nước văn minh yêu chuộng hòa bình trên
thế giới ghé thăm hàng năm đến có cả trăm triệu người. Từ Sạc-rờ-men-tô
(Sacramanto, ghi chú của tác giả) thủ phủ của Bang Ca-Li (California), xe hành
khách đón Ba và thằng Tư đi.
Hành khách trên xe, có sáu
mươi hai người. Đa số là các anh cả chị cả Trung Cộng vĩ đại, còn lại hai mươi
người khác, là những “khúc ruột xa ngàn dặm”của quê hương ta. Triệt để
tuân thủ đường lối đứng đắn của đảng ta, nên Ba kêu họ bằng danh từ thân thương
đó, chứ theo Ba thấy, thì bọn nầy thuộc loại cực kỳ phản động, điên cuồng chống
phá cách mạng. Chúng ăn nói toàn những lời vong mạng phản động, bọn bám theo
chân đế quốc tư bản, phản lại đất nước quê hương xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Ba
đề cao cảnh giác tối đa khi giao tiếp với bọn ngụy nầy. Ba sẽ nói nhiều về
bọn phản quốc nầy trong thơ sau cho con biết, bây giờ Ba viết về những điều chứng
kiến tận mắt, và đánh giá sự việc dưới quan điểm duy vật biện chứng của một con
người có bề dày cách mạng và trung kiên như Ba.
Họ đưa Ba vào thăm dinh Chủ
Tịch của bang Cali. Vào trong dinh nầy, là Ba thấy rõ cái tệ hại của tự do hỗn
loạn của thế giới tư bản. Du khách đi lại lang bang trong dinh, mà không có công
an theo dõi, bám sát, canh chừng chi cả. Tệ đến nỗi có thể đứng bên ngoài phòng
làm việc của Đồng Chí Chủ Tịch Bang nhìn vào, mà cũng chẵng ai ngăn cản. Như
thế thì còn chi là bí mật quốc gia nữa. Thật là thiếu đề cao cảnh giác tột độ. Tệ
hại đến nỗi du khách chụp hình lia lịa các phòng ốc, hành lang, đường nẻo bên
trong. Chụp hình cả đồng chí Chủ Tịch Bang, mà bọn bảo vệ làm việc tắc trách
trơ mắt ra, không hề biết ngăn cản, hay “làm việc” để đưa chúng đi cải tạo tư
tưởng. Đúng là sống lúc quân hồi vô phèng, không có chính quyền ư? Dinh Chủ Tịch
nầy, tự nó tố cáo tính bóc lột nhân dân lao động của bọn tư sản mại bản.
Không phải như Bác Ta, cần
kiệm liêm chính, chỉ ở trong căn chòi tre, đi dép lốp với hai bộ áo quần kaki.
Ba nói điều nầy với thằng Tư. Nó nói với Ba rằng:“Cho đến giờ nầy mà Ba vẫn còn
tin những điều lừa mị ấu trĩ nữa sao?” Ba không chấp lời nói của nó làm
chi, vì Ba đang nhờ nó nhiều chuyện. Cũng may cho nó, nếu còn ở bên nhà, thì Ba
cũng “đề xuất” cho nó đi cải tạo tư tưởng một thời gian ngắn chừng năm năm hay
mười năm, để giúp đỡ nó.
Chiếc xe trực chỉ về hướng
Đông, đi qua những vùng đồi núi cỏ cháy vàng, băng qua thành phố bài bạc Rí-nồ
(Reno), thành phố nầy của bọn tư sản bày ra để bóc lột mồ hôi nước mắt của tầng
lớp thợ thuyền lao động và nông dân. Đây là âm mưu thâm độc của con bạch tuộc
nhiều vòi, bám vào hút máu chính nhân dân chúng và nhân dân thế giới. Ba cũng
mong xe dừng lại thành phố nầy, để Ba thấy rõ hơn cái tội ác của đế quốc Mỹ đối
với chính nhân dân lao động thợ thuyền.
Nhưng xe cứ lướt đi, băng
qua rặng núi Xì-Ê-Ra (Sierra Nevada), đường núi quanh co, chập chùng làm lòng
Ba xúc động nhớ đến thời chân dép lốp băng rừng Trường Sơn, hạt gạo cắn làm tư,
đi về Nam giải phóng quê hương. Thời đó có thừa gian khổ. Thế mà hôm nay ngồi
trên ghế nệm êm ái của xe khách, xe lăn êm như ru trên con đường tráng nhựa phẳng
phiu, xe có máy điều hòa không khí mát dượi, nhưng Ba vẫn chẳng thấy cái tính
ưu việt nào, so với chuyện chân đất kéo pháo Trường Sơn ngày cũ. Buổi chiều ghé
lại thành phố Eo-cồ (Elko) thì xe đã chạy được hơn 520 đặm Anh, tức hơn 830 cây
số bên mình. Phải công nhận là khẩn trương, ngày xưa đi bộ chừng đó đường trong
rừng núi cũng phải hàng tháng trường, và hao hụt nhân mạng không biết bao nhiêu
mà kể.
Họ đem hành khách vào một
tiệm ăn, họ gọi là ăn theo lối búp-phê (buffet). Ba đoán đây là một quán ăn quốc
doanh, cho nên không có người phục vụ. Khách phải xếp hàng dài, tự lấy thức ăn. Thế
mà nhân dân miền nam vẫn thường chế nhạo xã hội chủ nghĩa là “xếp hàng cả
ngày”. Ở nước đại tư bản nầy cũng phải xếp hàng vậy, mà có ai kêu ca gì
đâu. Mỗi người lấy một cái dĩa, muỗng, nĩa, dao, khăn giấy, và đi dần tới, tự
múc lấy thức ăn trong hơn hai chục cái nồi lớn, nồi nầy có thể nấu cho cả trung
đoàn ăn. Cứ thức ăn trong nồi vơi, thì nhà bếp bưng lên thêm, châm vào đầy
lại, bởi vậy Ba không phải lo khẩn trương đấu tranh vì sợ hết phần của mình.
Thức ăn dồi dào, có nhiều
chất tanh, chất béo và chất tươi. Đủ loại, gà, heo, bò, tôm, cá, cua, rau, đậu,
nấu theo nhiều cách khác nhau. Ban đầu, Ba không dám múc nhiều thức ăn, vì sợ họ
tính nhiều tiền, nhưng sau khi nghe thằng Tư nói là ai muốn múc bao nhiêu món
và nhiều bao nhiêu cũng được, thì Ba nắm bắt ngay thời cơ thuận lợi, múc lên
dĩa mình đủ thứ đầy vun, vun quá nên vài thứ thức ăn chảy ra ngoài, rơi xuống
sàn. Riêng cái việc không có người phục vụ, không có người canh gác, ai muốn
múc bao nhiêu thức ăn thì múc, cũng để lộ ra cái yếu kém về tổ chức, và yếu kém
về ý thức bảo vệ tài sản nhân dân trong chế độ tư bản.
Ba ăn hết một dĩa đầy, và
khi nghe thằng Tư nói, muốn ăn bao nhiêu dĩa cũng được, thì Ba tranh thủ ăn
thêm một dĩa nữa. Ăn thêm trái cây cắt sẵn, bánh ngọt và cà-lem. Phải công nhận
bánh ngọt của bọn đế quốc ngon, đáng ra thì Ba không nên khen, vì khen đế quốc, bất
cứ là khen gì, cũng là mất lập trường cách mạng.
Ăn xong, bụng Ba căng kềnh,
phải mở nút quần và nới dây nịt ra hai lỗ. Cho ăn thả dàn như thế nầy cũng là một
thủ đoạn thâm độc của bọn tư bản, vì ăn xong, thì Ba phải chạy gấp vào nhà cầu
mà tháo dạ. Chắc chi nhà cầu nầy là không phải là một hệ thống hố xí hai ngăn
trá hình, bày ra để khai thác phân tươi của khách hàng? Ba còn động não suy
nghĩ rằng, biết đâu chúng nó biết Ba là người cách mạng trung kiên, muốn hại Ba
nên bỏ thêm chất độc vào thức ăn thức uống, mà mình không hay. Con phải rõ bọn
CIA tàn bạo ở đâu cũng có mặt, và nhúng tay vào, mưu mô và sắp đặt khắp cả thế
giới.. Thế mà thằng Tư thì đổ tiệt cho Ba là tham ăn, cho nên bị tháo dạ. Ba
cũng đề cao cảnh giác, không tin chi nhiều vào thằng Tư , hắn vốn là Ngụy cũ,
tuy đã được cách mạng giáo hóa cho gần mười năm, học tập có tiến bộ, nên được về
đoàn tụ với gia đình, nhưng biết đâu vẫn còn lén lút hoạt động cho bọn gián điệp
CIA. Là người cách mạng, Ba phải luôn luôn đề cao cảnh giác.
Đêm nay ngủ lại khách sạn
Hiu-Tân (Hilton), khách sạn sang trọng, phòng có hai giường ngủ, Ba một giường,
thằng Tư một giường. Trong căn buồng ngủ, mà chúng thắp đến mười hai bóng đèn.
Thật là phí phạm, không có quy hoạch kinh tế. Khí trời đang mùa nóng nực, mà
trên giường chúng trải bốn năm lớp, nào là vải dày, vải mỏng, mền hai lớp, mền
len, làm Ba nghi ngờ chúng nó có âm mưu gì đây. Có lẽ chúng biết Ba thuộc thành
phần cách mạng, bày đặt ra để khoe khoang tuyên truyền chăng. Ba biết rõ, thế
nào chúng cũng đặt máy nghe lén, và đặt máy quay phim ghi lại các hành động,
các câu nói của Ba. Ba đi quanh kiểm soát trên tường, góc nhà, trong hộc tủ, và
thấy có nhiều máy móc, dụng cụ đáng nghi ngờ. Ba nói thầm cho thằng Tư biết, để
cảnh giác nó, mà nó không tin và gạt đi, cho rằng cái gì Ba cũng nghi ngờ như
người mắc bệnh tâm trí.
Người làm cách mạng, và
người có một chiều dày hoạt động cách mạng như Ba, nếu không biết nghi ngờ,
không biết đề phòng, thì đã không còn sống sót đến hôm nay đâu. Bởi vậy,
nên Ba không nói nhiều, và chỉ nói những điều khi cần nói mà thôi. Khi vào
phòng tắm, Ba cũng tắm với cái quần lót, chứ không trần truồng như ở nhà. Bọn
tư bản rất thâm độc, biết đâu chúng nó quay phim mình, rồi buộc mình làm những
điều đi ngược với đường lối của “trên”. Buổi tối, thằng Tư kiếm đâu được số điện
thoại của bạn nó là Phong, đang ở trong thành phố Eo-Cồ nầy. Hai đứa nói chuyện
điện thoại một hồi, cười nói vui vẻ lắm.
Ba nghe qua điện thoại, và
đoán rằng, chúng nó rủ nhau đi hủ hóa ở ổ nhện nào đó.
Một lúc sau thì thằng
Phong đến, hắn nói thẳng ra rằng, muốn Ba đi theo chúng nó, để hưởng hương vị đời,
cho biết đàn bà Mỹ nó thơm tho đến mức nào. Xem có hơn đám cán bộ hộ lý trên rừng
Trường Sơn bao nhiêu bực. Nói thật với con, trong bụng Ba cũng mừng như mở cờ,
nhưng đạo đức cách mạng buộc Ba phải nói lời từ chối. Nói lời từ chối, nhưng Ba
cũng lo lắng là sợ chúng không mở lời nài ép Ba thêm lần nữa. Nếu chúng không
đem đi, là cơ hội quý báu ngàn năm một thuở mất toi, không bao giờ có nữa. May
thay, thằng Phong kéo Ba dậy, và nói: “Cái hang trê của Mỹ, còn quý hơn
cái sự nghiệp cách mạng của Bác đến ngàn lần.” Ba thấy bị xúc phạm, nhưng
cũng riu ríu đứng dậy đi theo. Trong đêm tối, Phong lái xe chạy như bay.
Trên xe nó trang bị cái
máy như con ma xó, kêu nó quẹo phải, rẽ trái, còn xa bao nhiêu nữa, chỉ còn một
trăm thước nữa thôi, và kêu dừng lại. Chừng hơn một giờ lái xe, thì đến một
trang trại. Bên trong trang trí như cảnh của phim cao bồi. Ngồi trong phòng khách, thằng
Phong nói chi đó, Ba không hiểu. Một lúc sau có hai con nhỏ tóc vàng bồng bềnh,
thân mình cân đối, ngực căng, eo thon, mông đầy, chân dài, đi giày cao gót, da
thịt trắng nõn mền mại, mắt to, lông mi dài như riềm liễu rủ, môi mọng cớn lên
khêu gợi, nhan sắc chim sa cá lặn như tiên nương, nhún nhẩy ỏn ẻn. Bây giờ thì sự
nghiệp một ngàn năm cách mạng, Ba cũng bỏ, để đổi lấy một vòng ôm thơm tho
sực nức kia, chứ nói chi năm mươi năm.
Thằng Phong nói gì với tên
quản lý râu xồm, rồi cùng thằng Tư theo hai cô tiên thơm tho vào ngõ sau. Thằng
quản lý ra hiệu cho Ba đi theo nó vào một cái phòng khác ngồi chờ.
Thiệt Ba không ngờ, động
nhền nhện mà sang hơn cả dinh lãnh tụ. Ba ngồi chờ chừng năm phút, thì cửa
mở. Ba nhìn lên, suýt ngất đi vì sợ. Con biết chuyện gì không? Ba thấy một con
nặc nô hiện ra trong khung cửa, nó mang mặt nạ che đôi xanh lè như mắt mèo, ngực
trần thổn thện hai trái mướp hương, lưng thắt đai da to bản, đi ủng da màu đen
cao, và giữa hai chân là một cái khố mỏng như sợi dây rộng chừng hai lóng tay
con nít. Nó mang bao tay màu đen, và cầm một con roi da to dài quất vun vút
nghe đến lạnh xương sống.
Con roi da nầy, mà nó quất
cho một phát, thì cả con bò mộng cũng lăn ra, chứ nói chi đến người, mà Ba lại ốm
yếu già cả vì bao năm lặn lội nơi rừng sâu nước độc cho sự nghiệp cánh mạng của
đảng ta. Con nặc nô đứng chàng hảng hai chân, ngoác miệng ra nói câu gì đó Ba
không hiểu, và nó vút roi xuống. Ba hết hồn, nhưng nhờ ơn Bác và Đảng đã dạy
cho Ba nhuần nhuyễn bài học chém vè. Xưa, Ba đã từng chém vè hàng trăm trận mà
thoát chết. Không lẽ B52 trút bom như mưa, không chết, nay lại chết vì ngọn roi
da của con nặc nô nầy. Không lẽ sự nghiệp cách mạng năm mươi năm chấm dứt nơi
dây? Với tính “cơ động” cao, Ba phóng ra, luồn mình giữa hai chân con nặc nô mà
chạy thoát ra bên ngoài.
Nhờ dày kinh nghiệm trận mạc,
Ba khẩn trương chui ngay xuống gầm xe mằm im, như ngày xưa nằm trong hầm kín địa
đạo Củ Chi. Tháng tám tiết trời nóng nực, mà mồ hôi Ba đổ ra lạnh ngắt, miệng
khô đắng nghét. Ba thực sự run sợ, hai hàm răng đánh nhau cầm cập, không còn
anh hùng như ngày xưa khi xông pha trận mạc hiểm nguy.
Ba chợt động tâm cơ, e rằng
thằng Tư và bạn nó toa rập hại Ba, trả mối thù cách mạng đã cải tạo nó trong
nhiều năm, định nhờ tay con nặc nô đế quốc đưa Ba về gặp Các Mác Lê Nin và Bác
Hồ vô vàn kính yêu chăng. Thằng Tư là con rể, hắn có thể âm mưu hại Ba, thì
cũng không có chi là lạ. Ba biết rõ, trong cách mạng, có khi phải hy sinh chính
cả cha mẹ ruột, cả con cái mình cho sự nghiệp của Đảng và Nhà Nước, thì thằng
Tư nó hy sinh ông già vợ cho bọn tư bản cũng không có gì là lạ cả.
Quần Ba ướt nhẹp, Ba biết
vì quá sợ, nên không cầm được nước tiểu, chuyện nầy cũng thường thôi, Ba nhớ
ngày xưa đã từng vãi phân cả quần nhiều lần, mỗi khi ôm đầu chịu trận mưa bom
B52 của địch. Ba nằm yên chừng nữa giờ, thì nghe có tiếng thằng Tư kêu Ba, và
nghe có tiếng chân người đi sục sạo tìm kiếm. Với tất cả đề cao cảnh giác, Ba nằm
yên không động đậy. Nhưng rồi chúng cũng tìm được Ba, lôi Ba ra, Ba tưởng đâu lần
nầy chết thật. Ba định chém vè thêm lần nữa, nhưng chém vè xong rồi thì không
biết đi đâu.
Thằng Tư cự nự Ba, hỏi tại
sao khi không lại chui xuống gầm xe mà nằm. Ba vừa sợ, vừa giận, nói liều với
hai thằng Ngụy: “Chúng bay muốn giết tao thì cứ giết đi, bày trò làm chi?”. Bạn
thằng Tư cười ha hả, và giải thích cho Ba biết rằng, vì hắn nói không rõ ràng,
thằng quản lý tưởng Ba có bệnh “khổ dâm”, nên gọi con nặc nô kia ra để Ba hủ
hóa với nó.
Cây roi da cầm trên tay,
là để đánh đập hành hạ cho đổ máu trước khi thực sự đi vào cuộc truy hoan. Ba
không tin được lời giải thích chung chung đó, và nghĩ, vì chúng còn muốn lợi dụng
khai thác ở Ba một vài bí mật nào đó của cách mạng, nên còn để Ba sống. Tuy giận
lắm, nhưng Ba đã triển khai tính ưu việt của đảng ta, là khi ta yếu thế, thì phải
tạm thời thỏa hiệp, để chờ cơ hội mạnh, thì vùng lên, thẳng tay dùng bạo lực
cách mạng mà trấn áp không khoan nhượng. Hai thằng phản động đưa Ba về lại
khách sạn, cả đêm Ba đề cao cảnh giác, chỉ ngủ một con mắt mà thôi.
Sáng hôm sau dậy sớm, ra
xe khi trời đất còn tối đen, nhiều người cằn nhằn, than vãn vì còn buồn ngủ. Bọn
tiểu tư sản thành thị khi nào cũng hèn yếu và ưa hưởng thụ, mới có thế mà đã
than van. Ngày xưa Ba đi trong rừng thâu đêm, tháng nầy qua tháng nọ, mà chẵng
ai mở miệng kêu than một tiếng. Đó cũng nhờ lòng tin tuyệt đối vào đảng,
vào cách mạng, vì kêu than là mất lập trường, là chao đảo. Xe đi về hướng
Bắc, dọc theo rặng núi Đá Vôi, mà thằng Tư kêu là Rốc Kỳ Mao Tần (Rocky
Mountain)
Hai ven đường, đất đai cằn
cỗi khô khan, cây lúp xúp, ruộng đất nghèo nàn như Nghệ Tĩnh bên mình. Khi xe
chạy vào Bang Ai Đa Hồ (Idaho) thì Ba thấy có con sông, mà người ta kêu là sông
Rắn (Snake River), từ đây thấy cây cối xanh tươi, ruộng đồng mơn mởn. Ba thấy hệ
thống thủy lợi của chúng mà tức cười, làm sao mà so sánh với tính ưu việt của hệ
thống thủy lợi bên ta. Chúng nó tưới ruộng bằng những ống nước dài có chích lổ,
máng trên dàn sắt cao có bánh xe, di chuyển dọc theo ruộng. Nước bơm vào ống,
xì vung ra như mưa trải rộng. Ba không biết chúng làm sao mà kéo nổi những giàn
ống dài nặng như vậy được. Có lẽ dùng trâu bò. Thật là vụng về, bất tiện, kém
tính sáng tạo.
Buổi trưa, xe ghé lại một
tiệm ăn Trung Cộng, có lẽ cũng là tiệm quốc doanh, vì khách hàng phải tự đi lấy
đồ ăn. Cũng xếp hàng, cũng chờ đến phiên mình. Tiệm nầy, thì thức ăn khá dồi
dào, phải công nhận là ngon, bên ta không có tiệm quốc doanh nào mà so sánh được.
Trong khi ăn, Ba nói với
thằng Tư, là bên mình ăn phở quốc doanh không người lái ở Hà Nội cũng rất ngon,
và đầy tính cách sáng tạo của dân tộc. Thằng Tư nói rằng, vì hồi đó Ba đói, nên
ăn cái gì cũng ngon cả. Nó nói thêm là vợ nó khi ra Bắc thăm, khi nó đang cải tạo
tại trại Cổng Trời, có ghé Hà Nội ăn phở quốc doanh, và cho rằng, phở nầy chỉ ớn
hơn nước vo gạo một chút mà thôi. Ba biết bọn nầy chỉ bôi bác cách mạng là giỏi
. Trong tiệm nầy, có nồi xúp thịt gấu thật lớn, mọi người chen nhau xếp hàng
múc vào chén đầy vun, họ tin tưởng thịt gấu ăn vào bổ âm, bổ dương, và tăng cường
sức mạnh. Tin như vậy thì cũng tốt thôi. Ba tranh thủ ăn luôn hai tô xúp thịt gấu
có mùi thuốc bắc nồng nồng. Có cả một nồi đầy vi cá mập, tuy bụng đã căng kè,
Ba cũng tiến công làm thêm bốn năm miếng lớn. Lần nầy, ba cũng bị tháo dạ,
nhưng giữ bí mật không cho thằng Tư biết. Người làm cách mạng, phải luôn luôn
giữ kín mọi bí mật như giữ gìn con ngươi.
Buổi xế chiều, thì xe đến
thành phố cao bồi Giắc Xơn (Jackson), thành phố nhỏ, dân cư chỉ mấy trăm người,
đa số là du khách. Ở đây đặc biệt có cái công viên, mà bốn cỗng vào làm bằng
hàng ngàn cái sừng nai gài lên nhau. Bốn cái cỗng cao nghệu. Rồi xe tiếp tục đi
lên miền Bắc, từ đây là cây cối xanh tươi phủ núi rừng.
Rồi xe đến vùng công viên
quốc gia Đá Vàng (Yellow Stone), đây là một vùng đất rộng lớn mỗi chiều chừng
vài chục cây số ngàn nằm trùm lên ba Bang: Oai-Ô-Minh (Wyoming), Mông-Ta-Na
(Montana) và Ai-Đa-Hồ (Idaho). Đa số đất đai đều nằm trong Oai-Ô-Minh, rẻo hẹp
phía tây thuộc Ai-Đa-Hồ, rẻo mỏng phía bắc thuộc Mông-Ta-Na. Cái công viên quốc
gia nầy là một vết nhơ, một bằng chứng hùng hồn tố cáo tội ác của bọn địa chủ
trong chế độ tư bản đối với giai cấp bần nông. Chúng nó cướp đất nông dân làm
công viên mà chơi. Để biện minh cho hành động tàn ác nầy, chúng phao vu lên là
nhân dân lao động ở đây, đại đa số là dân da đỏ nguyên thủy, thấy khói bốc lên
từ đất, thấy nước nóng phụt lên thành vòi lên trên cao, nên sợ cái thiêng liêng
của trời đất mà không dám ở lại, phải di dân đi nơi khác sinh sống.
Hướng dẫn viên du lịch cho
biết rằng, vùng nầy nguyên là cái miệng núi lửa, đã phì ra nham thạch bao phủ một
vùng rộng 30 dài 45 dặm Anh (chừng 50×70 cây số ngàn). Núi lửa phun ba lần, lần
thứ nhất cách đây hai triệu năm, lần thứ hai cách một triệu ba trăm ngàn năm, lần
thứ ba cách sáu trăm bốn mươi ngàn năm. Lần cuối nầy phun ra được 530 tỷ mét khối
nham thạch. Theo Ba, thì toàn bố láo cả. Bọn tư bản thường hay bịp bợm, nói điều
không thật. Làm sao mà chúng biết được chuyện cả trăm ngàn năm trước? Khi
đó chúng đã sinh ra đâu, mà nói như thật. Chúng cho biết rằng công viên Đá
Vàng nầy là một trong vài ba nơi đặc biệt trên thế giới, có núi lửa đang liên tục
hoạt động với tầm mức nhẹ. Bởi vậy cho nên có những cái miệng, lâu lâu nước sôi
và khói phọt lên cao, những đồng bùn lầy nước sôi lục bục như nồi cháo nóng, và
những miệng nước nóng có thể thả cá vào luộc chín mà ăn được.
Sau bữa ăn chiều, Ba được
đem đến một quảng trường, có ghế gỗ thấp vòng quanh một khu đất trống cho du
khách ngồi, chờ xem hiện tượng nước phụt ra từ miệng một cái hố, mà khói hơi nước
đang bốc lên um tùm. Họ bảo là đúng 5 giờ 59 sẽ có nước phun lên cao bằng tòa
nhà lầu năm sáu từng. Du khách đông đảo ngồi chờ xem hiện tượng lạ nầy. Ban đầu,
cái hố xịt ra hơi nước từng hồi, khói mù um, rồi bỗng hơi nước phụt cao vào
không trung, sau đó thì một cột nước phun thẳng lên trời, cao chừng vài ba chục
thước, cột nước kêu phì phì, khi cao khi thấp, rồi lụn dần, cho đến khi chỉ có
khói bay ra. Thế là hết màn.
Tưởng gì, chứ vòi phun thì
ngoài Bắc ta thiếu gì, cả nước. Chỉ có khác là ở đây phun nước nóng bốc khói.
Ba nghĩ rằng, đây cũng chỉ là trò bịp bợm để thu tiền của bọn tư bản mà thôi.
Có thể chúng đào hầm bên dưới, nấu một nồi nước sôi, rồi cho xịt lên đúng giờ.
Chúng lừa bịp được thiên hạ ngây ngô, chứ không thể qua mặt được một con người
cách mạng như Ba. Tối nay, chúng cho Ba ngủ tại khách sạn Bét-Vét-Tẹc (Best
Western) cũng hai giường rộng và tiện nghi đầy đủ. Cho ngủ tại những khách sạn
sang trọng nầy, Ba biết rõ, cũng là âm mưu từ tòa Nhà Trắng, để tuyên truyền
cho đế quốc tư bản. Nhưng lòng trung kiên với Đảng ta của Ba chưa bao giờ sờn.
Buổi sáng, du khách được
khách sạn đãi ăn điểm tâm, chúng gọi là “điểm tâm đại lục” (continental
breakfast), có cà phê, sữa tươi, cốm rang đường dát mỏng, bánh ngọt, bánh mì mềm,
bơ, mứt trong gói giấy, và có một rổ táo. Ba xốc tới, tiến lên dành thế chủ động,
đoạt được ba trái táo cùng một lúc, gói vào khăn cất đi để dành trưa ăn. Cái thằng
Ngụy đứng sau Ba ganh tị nhíu mày có vẻ bất bình. Đâu có quy định nào là mỗi
người chỉ được lấy một trái táo? Vì mỗi người một trái, thì cái rổ táo nầy cũng
không đủ sáu mươi trái cho sáu mươi du khách. Ba cướp lấy thời cơ, ăn luôn năm
sáu cái bánh ngọt cho no bụng mà còn đi xem phong cảnh suốt ngày.
Chiếc xe chở du khách đi
vòng trong công viên, Ba thấy đồi núi đã cháy đen thui, từ núi nầy qua núi nọ,
hàng trăm quả đồi đã bị cháy, cây thông đen điu trơ trụi chỉa thẳng lên trời
như những rừng chông khổng lồ, liên tiếp cả hàng chục cây số. Hướng dẫn viên du
lịch cho biết vùng công viên nầy đã bị cháy từ năm 1988, cháy liên tục từ tháng
năm cho đến tháng mười một. Không chữa cháy được, cả nước chịu thua, và bó tay
dương mắt nhìn thôi. Cuộc hỏa hoạn nầy được trời dập tắt do trận mưa vào tháng
mười một. Cháy hết bốn mươi lăm phần trăm công viên. Theo Ba nghĩ, thì cuộc hỏa
hoạn nầy có bàn tay của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nhúng tay
vào, để trừng phạt bọn đế quốc Mỹ hiếu chiến hung hăng . Là một thắng lợi lớn
lao của chủ nghĩa ưu việt xã hội chủ nghĩa. Đây là một bằng chứng vĩ đại minh
chứng ai thắng ai. Nhìn trăm đồi núi của đế quốc hoang tàn mà lòng Ba phất phới
ngọn cờ hồng tung bay. Ba được đưa đến một cánh đồng bùn trắng, trên đó nhiều
nơi khói bốc hơi từ dưới lòng đất.
Ba nghĩ đây cũng là cảnh
giả tạo, họ bắt chước sáng tạo của nhân dân ta trong kỹ thuật lò Hoàng Cầm, dẫn
khói đi qua các vùng khác nhau. Bên dưới, có nhiều nơi bùn sôi lục bục. Có chi
lạ đâu. Cứ chôn dây điện nấu lò ở dưới đất và châm đều nước vào, thì sôi thôi.
Có những cái hố miệng
tròn, bên trong nước nóng làm khói bốc mù, người ta nói, câu cá đem nhúng vào
nước sôi nầy, thì cá chín, kéo ra ăn được. Bố láo cả. Ba đã từng thấy các anh
nuôi, chị nuôi nấu cơm cho cả trung đoàn ăn, cái lò của ta, còn lớn hơn mấy cái
hố nước nóng nầy nhiều. Trên cánh đồng bùn lầy nầy, có cầu gỗ bề ngang rộng, bắc
vòng vèo chạy quanh, không chừng dài cả cây số, cho du khách đi xem chơi. Đây
là một sự phí phạm tài sản nhân dân, phục vụ cho bọn tiểu tư sản thành thị,
không màng chi đến nỗi khổ cực của nhân dân lao động, làm việc từ mười hai tiếng
đến mười lăm tiếng mỗi ngày trong các cơ xưởng sản xuất, làm theo lối dây chuyền,
của bọn tư bản bóc lột. Chúng nó đem Ba đến một nơi gọi là Miệng Rồng, đó là một
cái hang lớn, bên trong có tiếng kêu sòng sọc, hơi nước từ miệng hang phà ra
nghi ngút, mà hơi nầy thối hoắc còn hơn cả hơi người đau bụng xì hơi. Theo Ba
nghĩ, thì đặt cho nó cái tên là Đít Núi thì đúng hơn, vì đó là một cái hang tối
tăm, có tiếng sòng sọc bên trong như người bị sôi bụng, và xả hơi ra mịt mù thối
tha. Đám du khách chịu không nổi mùi hôi, đều nhăn mặt. chun mũi. Thế mà cũng
đi xa cả ngàn dặm đường để đến xem cho được.
Rồi xe chở Ba đi xem thác
nước, Ba cũng chẳng tha thiết gì cái thác nầy, bên ta chán kho gì thác mà phải
tốn thì giờ đi xem. Trên đường đi, Ba thấy có hai con bò rừng đang đi dọc đường,
chúng đi trên lề, và bên tay phải, dáng thong dong. Có người khen là con vật ở
đây cũng hiểu biết và tôn trọng luật đi đường. Ba nghĩ đó là bò máy, chính quyền
địa phương bày ra để hù họa và mà mắt du khách thôi.
Sau đó, thì đi thăm hồ,
đây là cái hồ có diện tích 350 cây số vuông (136 dặm vuông Anh) và chu vi bờ hồ
170 cây số (110 dặm) chiều dài hồ 32 cây số, chiều rộng 9 cây số (20×14 dặm).
Nước xanh ngắt, nghe đâu hồ sâu khoảng một trăm hai mươi thước. Bên bờ hồ, Ba
thấy mấy người dân đứng câu cá. Thì ra dân Mỹ cũng có những người mò tôm bắt ốc
lam lũ, dầm mưa dãi nắng bên sông rạch kiếm cơm qua ngày, chứ giàu có cái nỗi
gì.
Nhưng Ba thấy họ đi
câu, mà mang ủng, và áo quần thì sang trọng như các đồng chí trung ương đảng đi
họp đại hội. Ba không muốn so sánh với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Bảy Mẫu
bên mình. Hồ mình tuy nhỏ hơn, nhưng theo Ba thì đẹp hơn thân thương hơn. Trên
đường Ba cũng thấy nhiều bầy nai nhởn nhơ ăn cỏ, không sợ gì con người cả. Giá
như Ba ở đây, Ba sẽ mở một quán thịt rừng, mỗi ngày giết vài con nai bán thịt,
thì kiếm được bộn tiền. Nói thế, chứ con người như Ba, không có quyền phe phẩy,
làm việc buôn bán, mất đạo đức cách mạng.
Buổi trưa, du khách được
đem đến quán ăn. Ba không ưa ăn loại bánh mì mềm lạt lẽo, thằng Tư mua bánh xèo
Mỹ cho Ba với hắn ăn. Chưa bao giờ mà Ba ăn bánh xèo dở như hôm nay. Chúng nó
không biết làm bánh xèo mà cũng bày đặt bán. Bánh xèo của chúng dày cộm, mềm bủn
nhủn, có nước xốt cà chua đỏ lòm, bên trên có rắc lạp xưởng, ớt, nấm cắt mỏng,
rau. Ăn rất béo. Thằng Tư kêu loại bánh xèo nầy là “pi-dà” (pizza). Dù đói bụng,
nhưng thứ nầy rất khó nuốt.
Ráng ăn cho qua bữa, ăn
xong uống nước ngọt. Ăn miếng bánh xèo đó mà thằng Tư trả tiền đắt như bữa cơm
Tàu ăn đầy bụng. Lấy kinh nghiệm buổi trưa, chiều hôm đó đám du khách vào cửa
hàng bách hóa tổng hợp mà mua thức ăn tối đem về phòng. Ba thấy mấy “khúc ruột
xa nghìn dặm” mua về nhiều con gà quay, bánh mì, rượu chát, rượu bia, trái cây,
rau sống, dưa chua, đem vào phòng ăn khách sạn mà liên hoan ồn ào cho đến
khuya, để lộ ra cái bản chất của bọn tiểu tư sản thành thị bao giờ cũng sa đọa,
chỉ nghĩ đến hưởng thụ vật chất và sợ gian khổ.
Sáng hôm sau, xe lại khởi
hành sớm, cũng ra đi khi trời còn mờ sương. Xe xuôi về hướng Nam, hình như quay
lại đường cũ, Ba không rõ lắm, xe chạy quá mau. Đi chừng vài tiếng, thì xe dừng
lại xem một trại nuôi gấu, chó sói và nai rừng. Du khách phải đóng tiền để xe
chở vào trại xem. Ngồi trên xe, đi qua trại gấu, thấy chúng thong thả ung dung
trong khuôn viên có hàng rào. Ba nghĩ nơi đây họ cũng nuôi gấu để hút mật gấu,
bán ra cho dân nhậu hòa với rượu mà uống như bên mình. Thế mà bên ngoài giả nói
đạo đức là bảo tồn giống thú hiếm quý.
Xe tiếp tục đi, rồi ghé lại
xem một thác nước thủy điện nằm vắt ngang thành phố. Đó là thành phố có tên
Thác Ai-Đa-Hồ (Idaho Fall City). Thác dài rộng, không cao, nằm xuyên qua thành
phố. Đối với Ba, đã lăn lộn nhiều năm trong rừng Trường Sơn, thì thác nước cũng
chẳng có gì xa lạ quyến rũ để đi xem. Ba ngồi lại im lặng trên phiến đá, còn du
khách thì xôn xao chụp hình, nói nói, cười cười, tấm tắc khen.
Xe ghé lại một nơi mà nhìn
xuống là thung lũng sâu thẳm. Bên dưới có nhà cửa, có đường xá. Bên kia là vách
đá dựng đứng cao ngất. Không biết họ đi xuống bằng đường nào. Bên trên cao, có
cây cầu mà Ba nghĩ là họ bắt chước cầu Hàm Rồng của mình. Cầu cong bắc qua mõm
đá cao. Có năm sáu thanh niên mang dù, đứng trên cầu nhảy xuống vực sâu. Chúng
nó lái dù cũng khá giỏi, vì khi đáp xuống đất, thì đáp đúng vào cái điểm mà
chúng làm dấu bằng hai miếng vải màu bắt chéo hình chữ thập. Bọn nầy ăn no, rững
mỡ, không làm những việc sản xuất ra của cải vật chất, mà chỉ lo vui chơi, chơi
thứ nguy hiểm.
Buổi chiều, thì xe đến
bang U-Tà (Utah), du khách được dẫn đi xem mỏ đồng, chúng nó đào sâu xuống đất
hình phểu, sâu nhiều cây số. Chúng cho biết là mỏ đồng nầy lớn nhất thế giới. Họ
khoan đất, nhồi mìn, nổ tung đáy núi, rồi dùng xe xúc đất đá đem vào máy xay vụn,
đem lọc, rồi nấu ra đồng. Chiếc xe xúc đất có bánh xe với đường kính của nó, gấp
hai lần chiều cao của Ba. Không biết Liên Xô vĩ đại của chúng ta, có thứ xe nầy
hay không. Theo Ba nghĩ, thì nơi đây thợ thuyền lao động bị bóc lột tận xương tủy,
và thặng dư giá trị do tư liệu sản xuất đều vào tay bọn tư bản gian ác. Đây mới
thật là cảnh dời non lấp biển.
Ba khám phá ra một điều nữa,
là bọn tư bản tuy gian ác không lường, nhưng vô cùng ngây ngô, không những
chúng cho ta đi xem, mà còn cắt nghĩa, giải thích từng chi tiết về việc khai
phá cái mỏ đồng nầy. Sau nầy về nước, Ba sẽ đề xuất lên trên, xin phái người bí
mật qua đây thu thập hết tài liệu, để về khai thác mỏ đồng của xứ ta cho có hiệu
quả hơn. Thủ đô của Bang nầy tên là thành phố Hồ Muối, (Salt Lake City) vì ở
đây, có cái hồ nước mặn, ở độ cao hơn mặt biển gần một cây số, nồng độ muối mặn
hơn muối biển đến năm lần.
Làm sao tin được mà lại gạt
gẫm Ba. Lục địa xa biển đến non ngàn cây số, làm chi mà có nước biển tràn vào
đây được. Lại dấu đầu lòi đuôi, làm chi có chuyện mặn hơn nước biển đến năm lần?
Bày đặt ra để chứng tỏ nước Mỹ có nhiều điều khác thường mà lòe bịp thiên hạ
thôi. Ở Bang nầy, có nhiều người theo đạo Mọt Mông (Mormon).
Bang U-Tà là trung ương cục
của đạo nầy. Nghe nói, đồng chí khai sáng và lãnh đạo ngày xưa có trên năm chục
bà vợ. Có lẽ vì vậy, nên những kẻ thiếu vợ ganh ghét, đánh đuổi và giết chết.
Đồng chí lãnh đạo kế nhiệm,
đem tông đồ chạy, đi bộ băng qua nước Mỹ, đến U-Tà thì kiệt sức, dừng lại mà
xây dựng hội Thánh tại đây. Chuyện nhiều vợ, nhiều đàn bà vây quanh, là
chuyện bình thường của những vị lãnh đạo tối cao. Bác Mao vô vàn kính yêu bên
Trung Cộng vĩ đại, bác Xít Ta Lin ngàn năm cây đại thụ bên Xô Viết, tổ quốc của
xã hội chủ nghĩa chúng ta, Bác Hồ đời đời kính yêu trong quần chúng ta, đều có
rất nhiều người đàn bà đã kề vai sát cánh để làm nên sự nghiệp cách mạng tuyệt
vời cho khối xã hội chủ nghĩa thêm quang vinh quang sáng lạng ngàn năm. Khi
đi thăm nhà thờ, cả đoàn du lịch được tiếp đón để giảng giải về nguồn gốc đạo Mọt
Mông. Ba là con người đã thấm nhuần lý tưởng cách mạng, cho nên bỏ ra ngoài tai
mọi điều . Vì theo cách mạng vô sản, thì các thứ tôn giáo đều là thuốc phiện ru
ngủ nhân dân. Rồi Ba được đi thăm dinh đồng chí chủ tịch nhà nước Bang U-Tà.
Cũng cơ ngơi cao rộng, xa xỉ trên nỗi đau thương của bần dân lao động, không thể
sánh với Bác Hồ vô vàn kính yêu của chúng ta. Thằng Tư lại trổ giọng cực kỳ phản
động, gọi Bác là cáo già gian manh, lừa mị. May nó là con rể, nếu không thì Ba
đã cho mấy tát tai cho đỡ giận. Ba định bụng về sẽ báo cáo với vợ nó, chuyện nó
vào ổ nhện tìm vui để trả thù.
Đêm nầy, Ba lại được vào
ngủ khách sạn Hiu Tân khác. Rõ là hệ thống tư bản, đâu đâu cũng thả vòi bạch tuộc
của chúng đến để hút máu nhân dân làm giàu cho bọn bóc lột. Tối nay du khách được
đem đến một quán ăn Trung Cộng gốc Việt. Quán nầy mặt bằng lớn, sơn phết đỏ
lòm, bàn ghế cũ kỹ. Đám du khách người Việt Nam được ngồi riêng trong một phòng
do lòng ưu ái của chủ quán. Đi mấy ngày ăn toàn thức ăn Tàu, Mỹ, nên mọi người
đều hoan hỉ kêu phở. Giờ nầy mà có tô phở thì không có chi bằng. Chỉ có một thứ
phở tái chín mà thôi, không phải ai muốn kêu phở gì cũng được. Một người hỏi
anh bồi bàn rằng phở đây có ngon không, anh cười toe toét và nói: “Ăn một tô,
nhớ một đời”.
Chờ rất lâu phở mới được
bưng ra. Đúng như lời anh bồi bàn phán, ăn một tô phở nầy thực khách nhớ một đời.
Có người nói: “Hình như nhà hàng dọn lộn thức ăn. Đây là bánh cuốn chan nước thịt
trong lon, chứ không phải phở.” Người khác bàn rằng: “Món nầy người ta kêu là
phở U-Tà không giống phở Việt Nam chút nào.” Người khác bàn thêm: “Nhà hàng có
gọi là phở đâu mà các anh chị cứ chê bai, trong thực đơn ghi là xúp thịt bò,
theo tiếng Anh rõ ràng kia mà.” Theo Ba, thì phở ở đây có thể sánh với phở quốc
doanh ở trái tim tổ quốc Hà Nội của chúng ta dạo nào. Sáng hôm sau, xe lại khởi
hành sớm, khi trời đất còn tối mù. Đi du lịch, mà hối hả như chạy giặc, sơ tán.
Hướng dẩn viên du lịch khuyên du khách nên ngủ tiếp cho khỏe. Tiếng ngáy đều đều
trên xe.
Rồi xe đến nơi mà người ta
gọi là Bờ-Rai Ca-Nồng (Bryce Canion). Cảnh trí thật hùng vĩ lạ lùng. Dù có mang
tiếng là mất lập trường cách mạng, Ba cũng phải khen nơi đây quá đẹp, quá lạ,
và quá hùng vĩ. Đứng trên triền đá cao nhìn xuống cái lũng rộng bao la, thấy
như một thành phố tiên cảnh, có hàng ngàn tiên nga đang múa lượn, có hàng ngàn
tượng Phật đứng ngồi, có hàng ngàn hình dáng thú vật linh hoạt, có đền đài cung
điện. Từ núi nầy qua núi nọ tiếp nối nhau trùng trùng, trùng trùng ngút mắt.
Không nơi nào trên tổ quốc
xã hội chủ nghĩa mến yêu của ta có được cảnh vĩ đại nầy. Du khách được đi xuống
dưới đáy vực, một số không dám leo xuống vì sợ không đủ sức leo lên. Ba tuy tuổi
già, nhưng với niềm tự hào cao ngất, và với nhiều kinh nghiệm băng rừng Trường
Sơn, Ba leo băng băng xuống đáy vực mà xem cho rõ hơn. Ba thầm nghĩ, nếu có
đánh du kích, thì nơi đây là một chỗ dấu quân tuyệt hảo, chấp cả máy bay B52 của
địch, chấp máy bay Con Ma, Thần Sấm, cũng không động được đến dép râu của bộ đội
du kích ta.
Trên đường về, Ba được đưa
đến thăm một căn cứ không quân của bọn đế quốc Mỹ. Có đủ tất cả các loại máy
bay từ thế chiến thứ nhất đến nay. Có chưng bày đủ loại như Con Ma, Thần Sấm,
Chuồn Chuồn, Nòng Nọc, vận tải lớn, và có cả máy bay Mig 21 của Liên Xô vĩ đại,
máy bay của Đức Quốc Xã. Bây giờ Ba mới thấy rõ và sờ mó được những loại khí giới
giết người của đế quốc tư bản . Thật đúng như những bài học chính trị mà Ba đã
nhuần nhuyễn, xe tăng, máy bay của địch cũng rất ọp ẹp, chẳng khác chi bìa giấy
bồi. Nhìn tận mắt mới thấy và tin hơn. Căn cứ không quân nầy rất lớn,
chưng bày đủ thứ, mà canh gác đơn sơ. Mai sau có chiến tranh, thì đặc công ta cứ
mang bộc phá mà xông vào, thì phá hủy không còn một chiếc. Ba ghi nhận thật rõ
vào trí nhớ, để về làm báo cáo lên trên.
Khi xe đi ngang qua những
vườn cây trái xanh rờn ngút mắt hàng ngàn mẫu, Ba hỏi thằng Tư vườn cây trái nầy
thuộc hợp tác xã nông nghiệp nào, thì nó cười và bảo là của tư nhân. Thì ra nơi
đây còn rất nhiều bọn địa chủ bóc lột nông dân. Mai mốt có cách mạng về đây, bọn
địa chủ sẽ không thoát được cảnh đấu tố thanh lọc.
Khi về đến nhà, Ba triển
khai thao tác lý sự, phát huy tính chất tiền phong của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư
tưởng Mao trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh, gây nên cuộc đấu tranh giai cấp cục
bộ giữa hai vợ chồng thằng Tư, bằng cách tố giác, báo cáo với con Tư hành động
hủ hóa của chồng nó, có quan hệ giao lưu với ổ nhền nhện. Con Tư nổi máu ghen,
điên lên, to tiếng xỉ vả thằng Tư như tát nước. Hai vợ chồng nó rất căng, đấu
tranh gay gắt. Kết cục chúng đòi đem nhau ra tòa li dị. Thằng Tư xỉ vả Ba là cọng
sản phản thùng bội bạc. Ba cũng không giận, vì Ba đi đúng chính sách của đảng
ta, sử dụng tất cả mọi phương tiện, miễn sao đạt được mục tiêu cuối cùng thì
thôi.
Trong bảy ngày đi theo thằng
Tư tham quan phong cảnh nước Mỹ, Ba đã ghi nhận học hỏi được thêm nhiều kinh
nghiệm để đấu tranh cách mạng, và vững tin hơn vào đường lối đứng đắn của Đảng
ta, người lãnh đạo cuộc cách mạng chung thế giới, đưa nhân loại đến công bằng, ấm
no , hạnh phúc, làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu. Thằng Tư đưa Ba đi, nhưng
Ba nghi có bàn tay lông lá của bọn tư bản và CIA nhúng vào. Vì thằng Tư thì làm
thợ, con Tư thì làm nghề dũa móng tay, con của chúng còn đi học, phải đi bỏ báo
mỗi sáng sớm kiếm thêm tiền, thì làm chi có dư tiền nhiều, đem Ba đi chơi cả ba
ngàn cây số đường, ăn ở những nơi sang trọng, và cho xem những thắng cảnh danh
tiếng nước Mỹ. Nhưng chúng lầm, làm sao mua chuộc được lòng trung kiên của Ba với
cách mạng. Ba hẹn khi về sẽ nói cho con nghe nhiều hơn.
Cách mạng Việt Nam muôn
năm.
Ba của con,
Sáu Ruộng
Sáu Ruộng